
| Tiểu sử: Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 3 tháng 2 năm Quý Hợi tức ngày 17 tháng 2 năm 1923 dương lịch. (Năm 2021 là 98 tuổi) Ông là con trưởng của gia đình văn nghệ sĩ. Cha ông là Doãn Hưu, một nhà nho và người em trai của ông là nhạc sĩ, Doãn Nho. Năm 1946, ông lập gia đình với con gái nhà thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) là bà Hồ Thị Thảo. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam. Ông dạy học tại các trường trung học công lập như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953), Trần Lục (Sài Gòn, 1953-1960). Làm hiệu trưởng trường Trung học Công lập Hà Tiên (1960-1961), giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn (1961-1962), giáo sư trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, Đại học Văn Khoa Sài Gòn năm 1962 đến giữa thập niên 1960. Ông du học tại Hoa Kỳ về ngành giáo dục và rồi trở về nước tiếp tục công việc giảng dạy cho đến năm 1975. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu Rừng Lau, một trường thiên Văn Hữu Doãn Quốc Sĩ là Hội Viên Văn Bút Việt Nam (VNCH) năm 1958 liên tục đến năm 1975. Sau khi sang định cư tại Houston Texas Hoa Kỳ 1995 và tiếp tục tham gia là Hội Viên Danh Dự của Văn Bút VNHN, Vùng Nam Hoa Kỳ. Văn Hữu Doãn Quốc Sĩ là Cố Vấn và sáng lập viên của Văn Đàn Đồng Tâm 2006 và Văn Thi Hữu Cù Hòa Phong làm Chủ Bút từ năm 2011 cho đến khi Văn Đàn Đồng Tâm đóng cửa |
| Tác phẩm đã phát hành: Sợ Lửa (1956) U Hoài (1957) Gánh Xiếc (1958) Gìn Vàng Giữ Ngọc Dòng Sông Ðịnh Mệnh (1959) Hồ Thuỳ Dương (1960) Trái Cây Ðau Khổ (1963) Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến (1964), Người Việt Ðáng Yêu (1965) Cánh Tay Nối Dài (1966) Ðốt Biên Giới (1966) Sầu Mây (1970) Vào Thiền (1970) Khu Rừng Lau Người Vái Tứ Phương Dấu Chân Cát Xóa Mình Lại Soi Mình |

| Peter S. Beagle – Doãn Quốc Sỹ dịch Con Kỳ Lân Cuối Cùng HIỆN ĐẠI THƯ XÃ xuất bản 1973 Nguyên tác: THE LAST UNICORN của Peter S. Beagle do Ballantine Book, Inc., New York xuất bản lần Thứ Tư, 1972. Copyright © 1968 by Peter S. Beagle Bản dịch Việt văn của Doãn Quốc Sỹ, do Hiện Đại Thư Xã xuất bản, với sự chấp thuận của tác giả Peter S. Beagle. HIỆN ĐẠI THƯ XÃ 28, Phùng Khắc Khoan SAIGON – Đt: 93771 TỰA CỦA DỊCH GIẢ Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu, nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần tri kỷ. Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ. Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG – THE LAST UNICORN ra sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin được tuần tự nêu như sau đây: – Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay, lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ lân. Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập tắt ngấm. Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó. Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của Peter S. Beagle chính là ở điểm này. Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ. Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế giới này. Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta. Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc thường nhật. Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền. Thiện – Ác, Phúc – Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng, gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối, được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được. Điều thành công – điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây – của tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu. Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ… Một tác phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn? DOÃN QUỐC SỸ 1 Con Lân sống trong rừng Tử Đinh Hương (Lilac), sống hoàn toàn cô độc. Lân sống đã lâu đời lắm rồi, lâu đời như một lão bà cổ kính, nhưng lân nào có lưu ý đến điều đó. Lân không còn giữ được màu trắng phau phau của bọt biển như thuở nào, giờ đây màu trắng của lân lâng lâng như màu tuyết đổ trong một đêm trăng. Nhưng đôi mắt lân thì còn sáng, còn tinh, khi lân chạy dáng vẫn nhẹ như chiếc bóng lướt trên mặt biển. Thực ra lân không hề đơn giản là một thứ linh mã có sừng như nhiều người đã từng thấy trong các hình vẽ cổ; lân nhỏ hơn, móng toác, và dáng dấp cực kỳ uyển chuyển, ngựa làm sao sánh kịp, họa chăng hươu và dê có được đôi chút trong dáng nhảy giễu cợt. Cổ lân thật thon, thật dài khiến đầu lân tựa như nhỏ đi; bộ bờm thường rủ xuống khoảng giữa lưng, xốp như bông gạo, lồng lộng như mây. Tai nhọn, chân thon với một cụm lông xinh trắng như tuyết ở khoảng mắt cá, vào khoảng cao giữa đôi mắt là chiếc sừng lấp lánh ánh xà cừ ngay cả trong khoảng đêm đen dày đặc. Lân giết rồng bằng sừng đó, chữa cho nhà vua khỏi vết thương nhiễm độc cũng bằng sừng đó, mà rung cây cho hạt dẻ rụng xuống để mấy chú gấu nhỏ ăn cũng bằng sừng đó. Giống lân bất tử. Bản tính của lân thích sống một mình trong khoảng rừng nào đó, thường là rừng có khoảng nước trong đủ để lân tự soi thấy bóng mình, bởi lân cũng có chút kiêu ngạo hiểu rằng mình là sinh vật đẹp nhất và quyền phép nhất thế gian. Lân hiếm khi đi thành cặp, và chẳng nơi chốn nào kỳ diệu hơn nơi chốn chứng kiến một lân nhi ra đời. Vào những lần cuối cùng lân gặp đồng loại, những con lân còn tơ vẫn đeo đuổi lân, kêu gọi lân bằng giọng nghe lạ hoắc; nhưng rồi sau đó lân không còn ý niệm về thời gian, năm, tháng, mùa. Khu rừng lân ở bao giờ cũng bốn mùa xuân bất tận, và lân đi tha thẩn dưới bóng những cây dẻ gai lớn, thật lớn, ngắm hoài hoài đám thú, đám cầm sống dưới hang đất, sống trong bụi cây, làm tổ trên ngọn cây, trên mặt đất… Lân đã ngắm liên tiếp thế hệ này qua thế hệ khác những họ hàng nhà sói, nhà thỏ, lân quan sát chúng săn đuổi con mồi, ân ái nhau, sinh con đẻ cái, rồi chết. Và vì lân chẳng hề bận tâm làm những việc đó bao giờ nên lân cứ quan sát chúng hoài mà không chán. Một ngày kia có hai người thợ săn cưỡi ngựa mang theo cung dài vào rừng săn nai. Lân bèn lướt theo hai người, lướt rất thận trọng, thính tai đến như ngựa mà cũng không biết. Trông thấy con người, lân lại có cảm giác như xưa, một cảm giác lẫn lộn vừa âu yếm vừa hãi hùng. Không bao giờ lân muốn người phát giác thấy mình, tuy nhiên lân lại muốn tới gần để ngắm người cưỡi ngựa và nghe người nói chuyện. “Tôi không ưa cái cảm giác đi vào khu rừng này,” người đứng tuổi lẩm bẩm lên tiếng. “Những sinh vật sống tại khu rừng có kỳ lân bao giờ cũng biết chút ít pháp thuật, đặc biệt thuật tàng hình. Chúng ta đừng hòng săn được con mồi nào ở đây.” “Đã từ lâu rồi, làm gì còn giống kỳ lân kia chứ, ấy là hãy cho rằng xưa quả có giống kỳ lân,” người thứ hai nói. “Đây chỉ là một khu rừng như muôn ngàn khu rừng khác.” “Vây sao ở đây lá không rụng, không có cả tuyết rơi nữa? Tôi dám cá với anh rằng vẫn còn một con kỳ lân sót lại trên cõi đời này – tôi nghiêng mình kính cẩn trước sinh vật lâu đời cổ kính đó – và bao lâu kỳ lân còn sống trong khu rừng này, những tay thợ săn như chúng ta đừng hòng săn được gì, dù là một con chim bạc má nhỏ. Cứ việc quất cho ngựa chạy đi, chạy nữa đi, anh sẽ thấy. Tôi hiểu kỳ lân quá mà!” “Toàn chuyện hão trong sách vở hết,” người kia trả lời. “Toàn chuyện cổ tích, chuyện trong Kinh Thi. Há chẳng phải thuở ba vua trị vì cũng đã có những lời đồn đại rằng kỳ lân ở xứ này, kỳ lân ở xứ nọ sao? Nhưng nào có ai thấy kỳ lân bao giờ? Anh cũng chẳng hơn cóc gì tôi, có biết kỳ lân mồm ngang mũi dọc ra sao đâu. Toàn chuyện sách vở ráo trọi.” Người thợ săn thứ nhất im lặng giây lâu và người thứ hai huýt sao cho mình nghe, tiếng sáo gay gắt, rồi người thứ nhất lên tiếng, “Bà cụ tổ mẫu tôi đã từng một lần gặp lân. Hồi tôi còn nhỏ cụ thường kể lại chuyện đó cho nghe.” “Ồ, vậy à? Thế cụ có bắt kỳ lân bằng dây cương vàng không?” “Không, cụ không có dây cương vàng. Mà cũng chẳng cần phải dây cương vàng mới bắt được lân. Đó là chuyện cổ tích! Chỉ cần lòng mình trong sạch là đủ!” “Phải, phải.” Chàng thợ săn ít tuổi hơn cười khúc khích, “Thế cụ bà có cưỡi kỳ lân không? Cưỡi không yên cương, tất nhiên lãng đãng dưới rừng cây, như một nữ sơn thần thuở khai thiên lập địa.” “Cụ tổ mẫu tôi vốn sợ những con vật lớn,” người đi săn thứ nhất trả lời, “Cụ không cưỡi con lân, nhưng cụ ngồi thật yên lặng, và con lân ngả đầu vào lòng cụ thiu thiu ngủ. Cụ tổ mẫu tôi cứ ngồi yên bằn bặt như vậy cho đến khi kỳ lân thức giấc.” “Thế kỳ lân giống cái gì? Người xưa cho rằng kỳ lân vốn cực kỳ dữ tợn, mình ngựa đầu hươu, chân voi, đuôi gấu; khi rống lên, tiếng trầm, có một sừng màu huyền dài khoảng vài tấc, theo người Trung Hoa thì…” “Cụ tổ mẫu tôi chỉ nói rằng kỳ lân tỏa ra mùi hương thơm lắm. Cụ vốn không ưa mùi bất kỳ một con vật nào, kể cả mèo hay bò, cụ kêu là mùi chúng hoang dại. Vậy mà cụ ưa mùi kỳ lân. Đã có lần cụ khóc khi nhắc lại chuyện đó với tôi. Đã đành cụ già lắm rồi và người già thường dễ mủi lòng khi hoài niệm đến cái gì thuở còn trẻ. “Thôi hãy quay trở lại, chúng ta sang săn một khu rừng khác,” người thợ săn thứ hai đột nhiên nói. Lân vội lẩn ngay vào một bụi rậm, đợi cho hai người quay ngựa và phóng xa được một quãng mới lại tiếp tục lướt theo. Hai người yên lặng cho ngựa chạy đều đến gần ven rừng thì người thợ săn thứ hai lên tiếng, “Tại sao những linh vật đó lại mất đi, anh có biết không, nếu quả thật xưa có chúng?” “Nào ai biết được. Thời thế xoay vần! Liệu anh có cho rằng thời thế này hợp với kỳ lân?” “Dĩ nhiên là không rồi, nhưng tôi tự hỏi trước chúng ta có ai tự hào là thời mình hợp với thời kỳ lân xuất hiện? Nay nhớ lại thì hình như tôi đã có lần được nghe kể chuyện… nhưng lần đó tôi lại say bí tỉ đến díu cả hai mắt lại, hoặc giả lan man nghĩ sang chuyện khác. Nhưng mà thôi, cũng chẳng sao. Còn đủ ánh sáng để săn nếu chúng ta lẹ lên một chút, lẹ lên nào!” Họ thoát ra khỏi rừng thúc ngựa phi nước đại, lướt nhanh về phía xa. Trước khi cả hai khuất bóng, người thợ săn thứ nhất quay đầu lại, nói như thể nói với chính bóng con lân mà chàng đang thực mục sở thị, “Hãy ở lại nơi ngươi đang ở, hỡi linh vật đáng thương! Thế giới bên ngoài này chẳng có chỗ nào xứng cho ngươi đâu. Hãy ở lại nơi rừng sâu ngươi trú ngụ, giữ cho cây xanh hoa nở, giữ cho những loài vật bằng hữu sống bên ngươi được trường thọ. Đừng chú ý làm chi đến đám thiếu nữ, vì rồi đây họ cũng chẳng thể trở nên gì khác hơn là những bà già lẩm cẩm, thôi chúc ngươi may mắn.” Lân đứng lặng khoảng ven rừng và thốt thành tiếng: “Ta là con kỳ lân duy nhất cuối cùng.” Đó là những lời đầu tiên lân thốt ra kể đã từ trên một trăm năm nay. Có thể như thế lắm. Lân nghĩ vậy và cũng chẳng ngại gì về nếp sống đơn độc nơi đây, chẳng bao giờ gặp một đồng loài nào khác, bởi lân luôn luôn nghĩ rằng tất nhiên còn những lân khác ở những nơi khác trên cõi đời, với những ý nghĩ đó há chẳng đủ sao. “Nhưng dù sao ta cũng cần biết đồng loại của ta có bị tuyệt diệt không. Nếu quả thực như vậy thì rồi tất đến lượt ta, tránh sao thoát. Ý nghĩ đó làm lân hoảng sợ và muốn chạy. Bóng lân lấp lánh lướt nhẹ dưới bóng rừng, lướt qua những khoảng rừng trống sáng đến khó chịu, có cỏ, có bóng đổ xuống đu đưa; lân nhận thức cực kỳ tinh tường mọi vật xung quanh, từ tiếng cỏ lướt chạm dưới chân, đến thoáng chim gõ mõ vù bay màu xanh loáng bạc, trong khi gió lùa tung từng đợt lá vàng. “Chao ôi, ta thực chẳng bao giờ nên dời khỏi nơi này, chẳng bao giờ cả, không, nếu quả thực chỉ còn mình ta là con lân cuối cùng trên cõi đời này. Ta quen sống ở đây quá rồi, ta biết từng mùi, từng vị, hiểu thấu bất kỳ cái gì hiện hữu nơi đây. Dù đi đâu chăng nữa, ta còn biết tìm những gì khác ngoài chính những thứ đó?” Nhưng khi lân ngừng chạy, dừng lại, đứng lặng, nghe tiếng quạ đen, và tiếng lũ sóc cãi nhau trên đầu, lân lại tự hỏi. “Ừ mà ngộ như đám đồng loại của ta đã kéo nhau đi tới một nơi xa nào đó và đương ẩn núp chờ đợi ta thì sao?” Ngay giây phút đầu tiên nghi ngờ đó đã làm cho lân thấy mất bình yên; rồi từ lúc manh nha ý tưởng sẽ dời khu rừng này, lân bỗng thấy bứt rứt không thể dừng lại bất kỳ nơi nào mà lại không muốn di chuyển ngay sang một nơi khác. Lân hết đi ngược lại đi xuôi ven hồ, dáng bứt rứt, không vui. Giống kỳ lân đâu có phải băn khoăn, chọn lựa. Lân nói không, rồi lại nói có, rồi lại nói không hết ngày rồi đêm, và lần đầu tiên lân cảm thấy giây phút bò lên mình như những con sâu, “Việc gì phải đi đâu. Đã từ lâu con người không hề gặp bóng kỳ lân, đâu có nghĩa là giống kỳ lân tuyệt diệt. Mà dầu sự thể có vậy đi nữa thì ta cũng chẳng đi đâu. Ta cứ ở đây.” Nhưng rồi vào một đêm ấm trời kia, lân sực tỉnh giấc nồng và tự nhủ. “Có chứ.” Và lân vùng chạy nhanh xuyên ngang rừng, cố gắng không muốn nhìn thấy gì, ngửi thấy gì, cố gắng không muốn cảm thấy bốn vó đương lướt trên mặt đất. Đám cầm thú đang di chuyển trong đêm, mấy anh cú, mấy chú cáo, mấy bác hươu cùng ngửng đầu lên khi lân lướt qua, nhưng lân không hề để ý tới chúng. Ta phải đi, đi thật nhanh, lân nghĩ, nhưng ta sẽ trở lại ngay, càng sớm càng hay. Có lẽ ta cũng chẳng phải đi xa lắm đâu. Dù có gặp đồng loại hay không, ta cũng trở về ngay, càng sớm càng hay. Con đường từ ven rừng vươn ra xa lấp loáng như ánh nước, nhưng từ lúc dời khỏi rừng cây, đặt bước trên đó, lân mới cảm thấy hết nông nỗi đoạn trường. Lân đã muốn quay trở lại, nhưng rồi hít một hơi dài để giữ lấy hơi rừng còn lẩn quất đâu đây, lân ngậm lấy hơi rừng thân yêu đó nơi miệng như ngậm một bông hoa, cố gắng lâu được chừng nào hay chừng ấy. ° Con đường dài thăm thẳm trườn ra vô tận, qua những làng mạc, những phố nhỏ, qua miền đồng bằng, qua miền sơn cước, qua miền sỏi đá khô cằn, qua cánh đồng cỏ xanh mướt, nhưng con đường có bao giờ chịu dừng chân lại bất kỳ nơi nào đâu, con đường trườn hoài, trườn hoài vào vô tận, thúc đây, cuốn hút bước chân lân, không ngớt, chẳng để lân được một phút nghỉ ngơi mà nghển cổ lắng nghe không khí như xưa. Đôi mắt lân giờ đây mờ bụi, bờm rủ cũng bị khô cứng vì bụi. Nhớ lại thuở còn sống ở trong rừng, thời gian trôi lững lờ bên lân, giờ đây chạy mải miết trên con đường thiên lý, lân thấy chính mình đương phải trườn qua thời gian. Lá cây đổi màu, bộ lông loài thú cũng khi rậm khi thưa; mây trời bay khi chậm khi nhanh theo sức gió, khi ửng hồng, khi vàng lộng với ánh mặt trời, khi xám ngoét, khi tím bầm với gió bão. Không khi nào lân tìm thấy dấu vết của đồng loại, qua những ngôn ngữ khác nhau, lân cũng chẳng hề nghe thấy thiên hạ nhắc nhở đến đồng loại mình. Vào một buổi sớm kia, lân đã toan rẽ khỏi con đường để ngủ, thì trông thấy một người đương cặm cụi cuốc vườn. Đáng lẽ phải ẩn mình đi, thì lân lại đứng nguyên đấy ngắm, cho đến khi người đó đứng thẳng lên và nhận ra lân. Hắn béo quá, mỗi bước tiến lại làm má hắn rung rinh. “Ồ,” hắn nói. “Ồ, trông mi thật đẹp.” Khi hắn rút dây lưng ra, thắt một cái nơ, và bắt đầu vụng dại tiến lên, lân thấy vui hơn là sợ. Hắn hiểu lân là gì và hắn đương làm gì: cuốc đất trồng xu hào, và đuổi theo một vật gì lấp lánh sáng và chạy nhanh hơn hắn. Lân lẹ làng bước né sang bên khi hắn vừa bắt đầu tiến tới như thể chính bước chân hắn phát ra gió và gió thổi lân ra khỏi tầm tay của hắn. “Thuở xưa, khi muốn săn ta, họ tổ chức chuông trống, xờ xí trịnh trọng và tưng bừng,” lân nói với hắn. “Người xưa hiểu rằng phải tổ chức săn huy hoàng như vậy mới quyến rũ được ta đến gần. Vậy mà cũng chưa hề một lần họ bắt được ta.” “Sao ta trượt ngã hoài,” hắn nói. “Đứng lại nào, hỡi vật xinh đẹp kia.” Lân nghĩ thầm trong khi hắn lồm cồm bò dậy, “Ta không hiểu nếu như bắt được ta ngươi sẽ làm gì.” Hắn nhảy tới lần nữa, và lân đã lẹ làng lùi xa như làn mưa bụi. “Ta ngờ rằng vị tất ngươi đã tự hiểu mình,” lân nói. “A, đứng yên, chóng ngoan.” Khuôn mặt hắn nhễ nhại mồ hôi với những ngấn dọc cát bụi, hơi thở hổn hển. Hắn vừa thở dốc vừa nói: “Đẹp. Con ngựa cái xinh đẹp làm sao.” “Con ngựa cái?” Tiếng lân thét lên lanh lảnh khiến hắn đứng sững lại, hai tay bịt vội tai. “Con ngựa cái?” lân hỏi, “ta, một con ngựa? Vậy ra từ nãy đến giờ ngươi vẫn coi ta là ngựa, vẫn nhìn ta là ngựa?” “Con ngựa thật đẹp”, con người béo bệu đó vừa thở hổn hển vừa dựa vào hàng rào, một tay lau mặt. “Chải cho mi, tắm cho mi, lập tức mi sẽ thành con ngựa cái đẹp nhất.” Hắn lại lăm le tiến lên với sợi dây lưng. “Phải cho mi đi dự thi hội chợ,” hắn nói. “Nào, hãy dừng lại!” “Một con ngựa,” lân nói. “Một con ngựa cái với khoảng bờm rủ trắng, đó là con vật ngươi đương rượt bắt.” Trong khi hắn tiến tới gần, lân bất chợt dùng sừng móc lấy dây lưng, giật mạnh khỏi tay hắn, rồi hất tung lên cho văng ra xa, rơi vào một luống cúc vàng. “Ta mà là một con ngựa ư?” lân càu nhàu. “Là ngựa này!” Trong một khoảng khắc, người đó tiến tới thật gần lân, và đôi mắt mở to của lân nhìn thẳng vào đôi mắt của hắn, đôi mắt nhỏ, mệt nhọc, ngạ, nhiên. Rồi lân quay đi, phóng mình lên đường, phóng nhanh đến nỗi những ai trông thấy đều thốt lên, “Cha, con ngựa kìa, ngựa ấy mới là ngựa!” Một cụ ông bình tĩnh nói với cụ bà: “Đó là loại ngựa Ả Rập đấy, bà nó ạ, tôi đã từng một lần ở trên chiếc tầu biển có con ngựa Ả Rập.” Kể từ đó, lân hết sức tránh đi qua những thị trấn, trừ trường hợp bần cùng bất đắc dĩ lắm không có lối nào đi quành. Tuy vậy mà vẫn còn gặp một số người rắp tâm rượt bắt, và vẫn là lề lối rượt bắt một ngựa cái, không hề có chuyện săn đuổi linh đình và trang trọng một con kỳ lân như ngày xưa. Họ rượt đuổi bằng dây thừng, bằng lưới, họ lấy những thỏi đường làm mồi nhử, huýt sáo gọi lân bằng những tên quen thuộc của loài ngựa. Đôi khi lân cũng chạy chậm một chút để tụi ngựa tiến tới đủ gần mà nhận ra mùi hương lân; lập tức lũ ngựa chồm lên, lùi vội lại, chạy miết, và đoàn kỵ mã thì kinh hoàng. Ngựa bao giờ cũng nhận biết ra lân. “Sao có thể như vậy nhỉ?” lân tự hỏi. “Cứ cho rằng con người đã quên hẳn loài kỳ lân đi; cứ cho rằng bản tính con người nay đã thay đổi và đâm ra ghét kỳ lân, hễ gặp là tìm cách giết. Nhưng lân không thể quan niệm nổi con người không chịu nhìn kỹ, chỉ trông mà không ngắm, đến nỗi lẫn kỳ lân với loài khác. Có thật lân giống các loài khác? Làm sao thân cây, căn nhà, con ngựa mà lại giống lân cho được?” Đôi khi lân nghĩ, “Tuy con người không còn nhận ra lân, rất có thể loài kỳ lân vẫn còn trên cõi đời này, và sống yên vui trong quên lãng đó.” Nghĩ vậy thôi, chứ thực ra ngoài mọi hy vọng, mọi phù hoa, lân cho rằng con người thay đổi, thế giới loài người cũng thay đổi chính vì loài kỳ lân đã mất. Tuy nhiên lân tiếp tục rong ruổi trên đường trường, mặc dầu cứ mỗi ngày qua đi, lân lại càng thiết tha tự nhủ rằng giá như lân vẫn ở lại khu rừng cũ đừng đi đâu cả thì vẫn hơn. Rồi một chiều kia có một chú bướm theo gió lao đao bay lại lấp lánh trên đỉnh sừng lân, chú bướm có đôi cánh nhung xẫm màu phấn bụi với những đốm vàng, trông chú mỏng như cánh hoa bay. Múa rỡn trên sừng lân, chú chào lân, cặp râu cong rung động. “Tôi là một kẻ bê tha lang thang. Chào bà bạn.” Lần đầu tiên trong cuộc viễn du này, lân bật cười. “Chú bướm, chú bay lang thang đi đâu vào một ngày lộng gió như hôm nay? Chú không sợ bị lạnh và chết yểu trước kỳ hạn sao?” “Tử thần lấy đi những gì người ta muốn giữ,” bướm nói, “để lại những gì người ta muốn bỏ. Gió cứ việc thổi lộng nữa đi và làm nẻ toác đôi má bà bạn. Tôi hơ tay sưởi ấm trước ngọn lửa của đời, lòng luôn luôn thơ thới hân hoan.” Bướm hấp háy như mắt cú trên sừng lân. “Chú bướm, chú có biết ta là ai chăng?” lân hỏi, lòng tràn trề hy vọng. Và bướm đáp, “Biết lắm chứ, bà bạn là người bán cá. Bà bạn là tất cả của tôi, bà bạn là ánh sáng mặt trời của tôi, bà bạn già, luống tuổi, chín chắn, bà bạn có khuôn mặt muối ướp, ốm ho.” Bướm ngưng lại, rung rinh đôi cánh trước gió, thủ thỉ tiếp, “Tên bà bạn là chiếc chuông vàng treo trong tim tôi. Tôi muốn thân thể tôi tan ra thành nhiều mảnh một khi được gọi tên bà bạn.” “Hãy nói tên ta, chú bướm,” giọng lân khẩn khoản. Nếu quả thực chú biết tên ta, hãy nói lên nghe thử.” “Bà bạn là chú lùn quay rơm thành vàng,” bướm vui vẻ đáp, rồi nhún nhảy trên sừng lân mà ca rằng, “Về đi thôi, hỡi chàng Bình Bá về thôi. Đi mà chẳng đặng thì thôi ta về. Gắng lên chàng Vĩnh Sơn ơi. Gắng lên bắt ánh sao rơi trên trời. Đất kia đứng lặng, máu chảy lang thang, Gọi ta là quỷ nhập tràng cũng xong.” Đôi mắt bướm càng sáng lên dưới ánh hồng quang của sừng lân. Lân thở dài và nặng nề tiến lên vừa vui vừa thất vọng. Thế cũng phải, lân tự nhủ. Làm sao mình lại có thể đợi bướm nói đúng tên mình nhỉ? Tất cả những điều chú ta nói đều là bài thơ khúc hát chú nghe được. Loài bướm thi sĩ nói thì được, nhưng chả giữ vững được cái gì, vả lại điều này cũng dễ hiểu, bướm thường chết yểu mà. Vẻ bướm nghênh ngang trước mắt lân, rồi vừa quay tít vừa cất tiếng ca, “Một hai ba, tcha tcha tcha, Đừng khéo dỗ ngọt bánh đa, Lối mòn sỏi cát, nẻo xa bóng chiều. Chán phè câu chuyện nói điêu, Tìm vui ta hát ta trêu cô nàng. Yêu ai chân bước vỗi vàng, Đuổi con cú ọ đuổi đàn yêu tinh. Lơ thơ tơ liễu buông mành, Què chân đến đó bất bình mà chi.” Tiếng bướm ca văng vẳng như tiếng tiền đồng gieo trên mâm bạc. Bướm ngao du nhởn nhơ cùng lân suốt quãng ngày tàn đó, rồi khi mặt trời đã xế đỉnh non Tây, cả vòm trời bát ngát vẩy tê tê hồng, thì bướm dời sừng lân, bay bổng lên cao, lơ lửng trước lân, “Tôi phải dông thôi,” giọng bướm lễ độ. Lân ngước nhìn, qua ánh chiều tà thấy rõ những đường gân đen nổi trên đôi cánh nhung của bướm. “Vĩnh biệt chú bướm,” lân nói. “Hy vọng rằng chú còn được nghe nhiều bài ca khác nữa,” lân nghĩ chẳng có cách nào chúc bướm hay hơn thế. Tưởng rằng bướm chia tay tức khắc, nhưng không, bướm chẳng hề vội vã tuy hơi có vẻ bứt rứt trong ánh trời chiều. “Về đi thôi,” lân giục bướm. “Lạnh rồi, về mau đi thôi. Bay phất phơ hoài bên ngoài gió lạnh thế này, chú chịu sao thấu.” Bướm vẫn bay lửng lơ, miệng ngâm thơ khẽ: sau đó giọng bướm bỗng rành rọt, “Kỳ lân. Hình giống con ngựa, có một sừng, tính cực hiền, vì vậy người ta còn gọi là nhân thú. Người xưa nói kỳ lân xuất hiện để báo sắp có thần nhân ra đời. Ô này, ta là chú bếp nhà ai, Ta là thuyền trưởng ở ngoài biển khơi. Cánh buồm no gió chơi vơi. Lấy ai bầu bạn cho nguôi nỗi lòng.” Cánh bướm tưng bừng và kiêu hãnh. Đã có những ánh đom đóm đầu tiên vây quanh, ngỡ ngàng. Lân sửng sốt nghe bướm sau cùng nói đến tên mình như vậy nên cũng bỏ qua việc bướm trước đây đã đả động đến ngựa. “Ồ, thì ra, chú biết ta!” lân reo vui như vậy, hơi thở mạnh thổi tung bướm ra xa dễ thường đến sáu, bảy thước. Khi bướm lao đao bay lại, lân nài nỉ, “Chú bướm, nếu quả thật chú đã nhận biết ra ta, vậy chứ trước đây chú có gặp đồng loại ta lần nào chăng. Làm cách nào gặp được đồng loại ta đây, đi lối nào?” Bướm hát trong ánh chiều chạng vạng: “Bướm hỡi bướm, cõi trần đã chán, Đường lợi danh luống nản chân bon. Cuồng điên theo gió thả hồn. Rượu say ta hát trăng tròn mặc trăng.” Bướm lại đậu trên sừng lân một lần nữa, run rẩy. “Làm ơn cho ta hay đi bướm!” lân nói. “Ta chỉ cần biết liệu có còn những kỳ lân khác trên cõi đời này chăng. Hãy nói cho ta hay điều đó chú bướm. Ta tin lời chú. Nói đi chú, để ta còn quay trở lại khu rừng của ta ngay. Ta đi đã quá lâu rồi.” Bướm lại ngâm nga: “Núi ca tít từng mây, Lũng sâu thẳm địa ngục, Giữ cho lòng hăng say, Vượt gian nguy khổ cực.” Bướm bỗng ngừng lại, rồi giọng trầm xuống, nghiêm trọng hẳn: “Không, không, nghe tôi hay chẳng nghe tôi, hãy nghe này! Nếu can đảm, bà bạn sẽ tìm gặp được đồng loại mình. Trước đây, đã lâu lắm rồi, tất cả kỳ lân đều bị con Bò Mộng Đỏ săn đuổi, bám sát, và dồn xuôi theo các ngả đường. Đừng hốt hoảng rụng rời, đừng yên vui nửa vời.” Cánh bướm nghiêng nghiêng chạm lướt lên da lân. “Con Bò Mộng Đỏ,” lân hỏi. “Con Bò Mộng Đỏ như thế nào vậy?” Bướm bắt đầu hát: “Hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây.” Nhưng sau đó bướm lắc đầu lia lịa, kể, “Đó là con bò mộng đầu tiên của loài bò mộng, uy nghi lắm, sừng như sừng bò rừng, nó dùng sừng đó để dồn kỳ lân tới khoảng tận cùng của đất liền. Nghe đây, nghe cho lẹ.” “Ta vẫn nghe mà,” lân kêu lớn. Đồng loại ta hiện ở đâu, và con Bò Mộng Đỏ ra sao?” Nhưng bướm đã lao sát tới tai lân, cười sặc sụa và cất tiếng hát: “Trong ác mộng ta bò quanh đất, Lũ vện, vàng bé oắt sủa vang. Rắn phun nọc độc rộn ràng, Ăn mày xuống phố, ốc vàng hến xanh.” Bướm còn đi lả lướt thêm mấy đường trước mắt lân, trong ánh hoàng hôn, rồi bay lạng ra xa dần, bay sâu vào khoảng chiều tím ngát ven đường, vừa bay vừa ca như khiêu khích, “Này chú thiêu thân, Ta hay chú vậy, Tay nắm lấy tay, Xin đừng nghĩ bậy…” Hình ảnh cuối cùng lân còn giữ được của bướm là chiếc cánh nhỏ lao vút vào đám lá cây. Cũng có thể là lân hoa mắt trông lầm, vì vào giờ chạng vạng đó, trông đâu cũng thấy thấp thoáng những cánh bướm. Dầu sao thì chú bướm cũng đã nhận ra ta; lân buồn rầu nghĩ vậy. Thế cũng là có ý nghĩa rồi. Nhưng rồi lân lại tự nhủ, Không, vẫn chưa có ý nghĩa gì hết, trừ phi phải có người làm bản nhạc; hay bài thơ về giống kỳ lân mới chắc. Nhưng còn con Bò Mộng Đỏ là cái gì vậy? Một bài hát khác chăng, ta chắc vậy. Bước lân chầm chậm, bóng đêm bắt đầu phủ dầy. Trời thấp xuống với màu đen gần như trong vắt, trừ một khoảng vàng lộng, đó là khoảng chị Hằng lẩn sau cụm mây dầy. Lân hát khẽ một bài ca mà một cô gái trước đây lâu lắm đã nhiều lần hát trong khu rừng cũ của lân: Bao giờ chim sẻ với mèo Sống chung hòa thuận, tôi chiều ý anh. Bao giờ cá chán biển xanh Nhảy lên ở cạn, tôi anh một nhà Lân không hiểu lời ca, nhưng bài ca làm lân nhớ khu rừng nhà kinh khủng. Hình như khi lân bước chân ra đi trời vừa sang thu thì phải. Sau cùng lân phủ phục xuống, nằm dài trên cỏ lạnh, thiu thiu ngủ. Lân vốn cực kỳ thận trọng, nhưng khi đã ngủ thì ngủ thật say. Quả thực nếu không mơ thấy mình đã trở lại cố hương thì lân đã thức giấc ngay khi nghe tiếng bánh xe và tiếng chuông leng keng đang tiến tới gần, mặc dầu bánh xe quấn giẻ để lăn cho êm, chuông bọc len để kêu vừa đủ. Lân mơ về chốn xa, quá xa, xa hơn vùng chuông kêu nhiều lắm, vì vậy lân vân thiêm thiếp nằm đó, không thức giấc. Có chín xe ngựa bốn bánh, hết thẩy đều phủ vải đen và kéo bởi những con ngựa đen gầy, mỗi lần gió thổi tung tấm rèm đen lên, những chấn song lộ ra như hàng răng đen ngòm. Xe dẫn đầu trên có một mụ già mập lùn ngồi cầm cương ngựa, dọc theo phần hông được phủ kín của xe là tấm biển có viết dòng chữ lớn: GÁNH XIỆC NỬA ĐÊM CỦA BÀ MÁ VẬN MẠNG. Và bên dưới là dòng chữ nhỏ hơn: Những sinh vật thuần sống về đêm được mang ra ánh sáng. Khi chiếc xe tiến ngang khoảng lân đang thiêm thiếp giấc nồng, mụ già vội ghìm con hắc mã. Tất cả những xe sau cùng phải dừng lại, đợi mụ già uốn mình nhảy xuống, yểu điệu một cách dễ ghét. Lướt nhanh đến sát lân, mụ cúi nhìn kỹ giây lâu rồi nói, “Lạy trời, có lẽ là ta đã được gặp con vật cuối cùng của loài này.” Lời nói của mụ để lại một dư vị vừa đường mật vừa gay cấn. “Liệu hắn có biết,” mụ vừa nói vừa cười, nhe những chiếc răng nhọn như những viên sỏi. “Sức mấy mà ta nói cho hắn biết.” Mụ quay mặt nhìn lại đoàn xe màu đen, bật móng tay làm hiệu hai lần. Hai người điều khiển hai xe số hai và số ba nhảy xuống, cùng tiến lại phía mụ; một người dáng lùn, da mặt đen, vẻ lạnh lùng như mụ; người kia thì cao, gầy, vẻ ngơ ngác cương quyết, bên ngoài khoác một chiếc áo bành-tô màu đen cũ, đôi mắt màu xanh. “Ông bạn thấy gì nào?” mụ hỏi người lùn. “Rukh, ông bạn thấy vật gì nằm đây nào?” “Con ngựa chết,” hắn trả lời. “À mà không, không chết. Cứ cho là thuộc loại bà con với loài rồng đi, hay với loài quái vật đầu người mình sư tử cũng được.” Tiếng cười khúc khích của hắn nghe như tiếng que diêm quẹt.” “Điên! Ông bạn thật điên,” Bà Má Định Mạng nói với hắn thế. Rồi bà quay sang người kia, “Còn ý kiến ông bạn này thì sao, hỡi ông bạn phù thủy, ông bạn tiên tri, ông bạn làm trò quỷ thuật. Với con mắt phù thủy ông bạn nhìn thấy gì nào?” Bà Má và Rukh cười ầm lên, nhưng tiếng cười đó ngừng bặt khi mụ nhận thấy người cao lớn vẫn còn dán mắt vào lân. “Thế nào, ảo thuật gia, ông trả lời đi chứ!” Mụ lầu bầu, nhưng người cao lớn vẫn không quay đầu. Mụ vươn bàn tay như càng cua ra, nắm lấy cằm y quay mạnh lại. Đôi mắt y đối chiếu với cái nhìn vàng vọt của mụ. “Con ngựa,” y lẩm bẩm. “Một con ngựa cái trắng.” Bà Má Định Mạng nhìn y giây lâu. “Ông bạn ảo thuật gia, ông cũng điên nốt,” mụ cất tiếng cười hi hi, “nhưng cung cách điên của ông còn tồi tệ hơn, nguy hiểm hơn. Rukh nói dối vì tham, nhưng ông bạn nói dối vì sợ. Hoặc đó là lòng tốt chăng?” Người đàn ông không nói năng gì. Bà Má Định Mạng cười tủm. “Ừ thì đây là con ngựa cái trắng đi, ” mụ nói. “Tôi muốn nó gia nhập vào gánh xiệc của mình. Cái chuồng thứ chín còn trống đấy.” Để tôi đi kiếm thừng,” Rukh nói. Hắn vừa toan quay đi thì mụ ngăn hắn lại. “Chỉ có một thứ thừng là có thể buộc được nó,” mụ nói. “Đó là thứ thừng mà các thần linh đã dùng để trói con sói Fenris, thừng làm bằng hơi thở của cá, nước rãi của chim, râu của đàn bà, tiếng kêu của mèo, thần kinh hệ của gấu, và còn một thứ nữa. À tôi nhớ ra rồi – rễ núi. Không có những thứ đó cũng chẳng có giống người lùn nào bện thừng cho ta. 1 Thôi thì với tài nghệ của chúng ta, đành thay thứ thừng vi diệu đó bằng cũi sắt vậy. Để tôi niệm chú giữ cho nó ngủ như thế này,” nói đoạn mụ làm điệu đan những sợi tơ không khí, miệng lẩm bẩm niệm thần chú. Nhường như có mùi khét lẹt bao quanh lân. “Nào bây giờ hãy nhốt nó vào cũi,” mụ nói với hai người đàn ông. “Con vật sẽ ngủ say cho đến khi mặt trời lên dù ta có ồn ào đến mấy, trừ khi quý vị ngu xuẩn mó tay vào nó. Hãy giở cái cũi sắt thứ chín ra và quây chấn song sắt quanh nó, nhưng cẩn thận đó! Bàn tay nào vuốt bờm nó tức khắc sẽ biến thành móng chân lừa, có hối cũng không kịp.” Mụ lại nhìn người đàn ông cao gầy bằng con mắt riễu cợt. “Ông bạn phù thủy, e rằng những trò vặt đó của ông rồi đây cũng chỉ thực hiện được một cách khó khăn hơn mất thôi,” mụ vừa nói vừa thở phào. “Vào việc ngay đi, trời chẳng còn tối được bao lâu nữa đâu.” Mụ đi lướt trở lại vùng có bóng xe đổ xuống như thể mụ chỉ vừa ra để xem giờ. Khi mụ đã đủ xa khỏi tầm nghe, Rukh nhổ nước bọt và nói, vẻ ngạc nhiên, “Tôi không hiểu mụ già lo lắng cái gì kia chứ. Chúng ta mó vào con vật thì làm sao nào?” Ảo thuật gia đáp lời hắn bằng một giọng nhẹ sớt phải lắng tai mới nghe nổi. “Tay người chạm vào làm thức giấc con vật. Ma quỷ đã khiến nó ngủ say như vậy. Mà Bà Má Định Mạng thì không khiến được ma quỷ.” “Nhưng mụ lại muốn chúng ta tin là có,” Rukh cười nửa miệng. “Đụng vào, tay biến thành móng lừa, cha a a!” Nhưng hắn cũng thục hai tay sâu vào túi. “Thần chú với chẳng thần chú, đó chỉ là con ngựa cái trắng già chứ gì. Nhưng ảo thuật gia đã đi về phía toa xe cuối cùng, “Lẹ lên nào,” ông ta nói. “Trời sáng đến nơi rồi.” Họ rỡ cái chuồng thứ chín, rỡ chấn song, rỡ sàn, rỡ mái, rồi dựng lại quanh lân để nhốt nó. Rukh giằng mạnh cái cửa để kiểm soát xem đã được khóa thật kỹ chưa, đúng lúc những lùm cây xanh phía trời đông bắt đầu nổi bật thì lân mở bừng đôi mắt. Hai người vội lẩn đi, nhưng ảo thuật gia còn ngoái cổ lại quan sát lân đứng dậy trừng trừng nhìn những chấn song sắt, đầu lắc lắc như đầu một con ngựa trắng già. ——————————– Theo thần thoại Bắc Âu. (Chú thích của người dịch) |
| Người Vợ Hiền- Doãn Quốc Sỹ Cô Trang còn độc thân có một cô bạn đã có chồng được hai năm nhưng vẫn chưa có con, Trang vẫn gọi là “cô bạn hiền !” Là thấy tính tình hiền, giọng nói hiền, nụ cười hiền… thì gọi là bạn hiền ! Hồn nhiên vậy thôi, chưa bao giờ Trang tự vấn vì sao, vì những đức tính vượt trội nào mà mình lại mệnh danh bạn là “cô bạn hiền !” Một ngày kia nhân dịp công việc xong xuôi, trên đường về chợt nhớ tới bạn, Trang bèn rẽ ngay theo con đường đưa đến nhà bạn. Tới nơi, Trang vừa gõ cửa tiếng bạn bên trong đã vang ra: • Cứ vào ! Trang mở cửa thấy bạn đang ngồi trên chiếc ghế kê ngay bên chậu hoa tím, tay cầm bức thư, vẻ mặt tưng bừng. Trang hỏi ngay: • Mới nhận được thư của cô bạn thân nào vậy ? Cô bạn đưa ngay bức thư cho Trang, giọng say mê: • Hay quá bạn ơi, bạn đọc nè ! Trang cầm bức thư cúi xuống, lộ vẻ ngạc nhiên ngay khi vừa đọc dòng đầu, kế đó càng đọc càng say sưa, đọc nhanh nữa: Kính Thưa Chàng, Lẽ ra phải đề trên lá thư này bằng một từ thương yêu hơn, nhưng em xin được bắt đầu bằng “Kính Thưa”, bởi vì câu chuyện thật đáng để bắt đầu trân trọng nhường ấy. Chàng sẽ tự hỏi: em là ai ? Em viết thư này làm gì ? – Xin thưa: Lá thư này để tỏ tình em với chàng – một mối tình nồng nàn sâu đậm, bất chấp những năm tháng muộn màng trôi qua ngả sương trên mái tóc. Em xin gửi đến chàng tình yêu – há đó chẳng phải là điều cao quý, là món quà đẹp nhất trên cõi đời này hay sao ?! Em gặp chàng khi đôi ta chung ngõ, chàng còn là cậu bé tắm sông, chui rào ăn trộm ổi. Thời ấu thơ tươi sáng reo vui, bướm rập rờn bãi sông, gió sớm phất phơ trên dậu cúc tần. Vâng, em yêu chàng khi ấy, khi mười bốn tuổi, dòng sông vắng ngậm vầng trăng cổ tích, trăng non rồi già chứng kiến đôi ta lớn lên rời xa đi học. Chàng nức nở tiếng đàn xé nát lòng em: Đóa hồng chớm nở Chùm nho mê say Trao nhau ngày ấy Hương còn đến nay Từ đó em gối đầu sương xuống hát cho những vì sao lẻ loi rơi rụng. Em xõa tóc Giáng Tiên đi dưới ánh trăng rằm. Em ngày đêm vỗ sóng than van cho nhánh sông phân ly. Em quẩy gánh hàng rong trên vỉa hè mờ cát bụi. Em hái chè dưới chân đồi chập chùng. Từ sườn non góc biển, em dõi theo chàng, khóc cười theo những buồn vui của chàng. Giờ hẳn chàng đã nhận ra em ! Rồi em đi theo chàng lên rừng xuống phố, qua gian nan họan nạn, qua sung sướng ngọt bùi, lúc nào cũng có nhau. Em ăn với chàng miếng cơm nắm dọc đường thiên lý, uống với chàng ly rượu nồng sóng sánh. Em ngỡ cùng chàng mãi mãi sánh đôi. Ai hay chàng đi xa: Cách nhau ngàn vạn dặm Nhớ chi tới trăng thề Chàng đi xa rồi về, chàng lại đi xa rồi về, giờ chàng đi sao chưa thấy về ? Em mong ngóng đợi chờ. Em làm thiếu phụ Nam Xương đêm đêm đối vách. Em là Tô Thị hóa đá đầu non. Đợi chàng từ mấy lần oanh líu lo đến ý nhi chợt gáy, từ mấy độ mai phong nhụy đến phù dung bơ thờ. Chàng nỡ đi thật sao ?! Chàng bảo rằng sông đã ra tới biển còn có khúc quành nào đâu ? Nhưng em không đành đoạn cam chịu như vậy. Nước tuôn ra biển lại mưa về nguồn ! Em dâng tặng chàng mối tình trắng trong chung thủy này và không chịu mất chàng ! Từ nay chàng sẽ luôn luôn nghĩ về em như em luôn nghĩ về chàng ! Chàng sẽ nhìn thấy em khắp nơi ! Một tà áo thóang qua. Em đó ! Tiếng guốc vang trên vỉa hè: em đó ! Em hóa thân thành con sáo sậu hót tự tình trong bụi tre ! Em náu mình trong gió mùa xuân, giục cành mai sớm nở ! Em núp trong giọt mưa từ tàng me rơi xuống tóc chàng ! Em núp trong sợi cỏ may quấn quít chân chàng ! Thương nhớ chàng khôn nguôi ! Em chèo bè tìm chàng ngòai biển Đông mênh mông, ngỏanh nhìn bốn phương mờ mịt, gió bấc thổi buốt ruột cây sầu đông, mưa Tây Sơn chứa chan từng trận, hồn em bão tố tơi bời. Chàng hãy hứa nắm tay em đi trong khu rừng lau xạc xào. Chàng hãy hứa cùng em tung tăng đi dạo, có trái dầu xoay trong gió rơi cài lên tóc em. Niềm mơ ước trải dài thao thức giữa hai ngụm nước trong tiếng nói cười. Lẽ nào những chuyện đó chẳng trở thành sự thực ! Lẽ nào chàng quên khu rừng mơ ước ấy ! Quên lời thề ước ba sinh ! Chàng phụ tình em ư ? Hay là chàng đã quên chàng và chàng đã quên em ? Nhớ thuở chàng là hòang tử nhặt được chiếc hài em qua cầu đánh rơi, thuở chàng dẫn em lên núi Tản Viên xây nhà bên suối, vớt tơ trời dệt lụa may xiêm. Còn em ? Thơm đêm liêu trai huyền hoặc ! Nhưng em là thì điều ấy có gì là quan trọng ?! Em vừa là ân sủng vừa là oan khiên ! Bởi vì em chính là chàng và chàng chính là em ! Chàng ơi xin hãy về với em ! Nơi ta ở có nắng hè nhuộm đỏ hàng dâm bụt, có trời thu xanh biếc ngõ hồng cốm tốt đôi ! Nơi ta ở có nhọc nhằn cay đắng nhưng cũng có hạnh ngộ thênh thang; có hệ lụy đời thường nhưng cũng có tình yêu thánh hóa. Đó là cội nguồn chàng dấn thân vào hành trình kiếp người và cũng là trốn đến vào phút cuối cùng chàng rời trần thế. Không mệt mỏi âu sầu, chàng sẽ an nhiên mỉm cười ngả vào vòng tay em ! Xin hãy đến cùng em ! Em ngồi hong tóc đợi chàng đầu thềm vắng. Em đi hát hội trăng rằm ở thôn Đông. Em se chỉ luồn kim nơi tinh cầu tím ngát. Em đưa võng hát ru: À ơi…à ơi… lên cao trông thức mây hồng Cố hương nơi đó bềnh bồng hư không Em đó, thưa chàng, luân hồi trong cõi vô thường này ! Em là của chàng và chàng là của em kiếp trước, kiếp này và mãi mãi về sau ! Em đợi chàng có nhật nguyệt trên cao chứng soi cho mối tình đôi ta. Đọc vừa xong Trang trao lại ngay bức thư cho bạn và hỏi liền: • Bức thư bạn thấy ở đâu vậy ? • Gài ngay trong tập sổ tay của anh ấy ! Trang ngạc nhiên gần như hốt hoảng. • Ủa, vậy là bức thư của người đẹp nào đó ?! • Đúng ! Vẻ mặt Trang hầu như chuyển thành ngẩn ngơ khi thấy vẻ mặt bạn vẫn vui hồn nhiên: • Ủa, bạn không giận sao ? • Giận sao ?! Người ta đã viết hộ những lời âu yếm mà mình không có tài viết nổi, không cám ơn còn giận người ta nữa sao ?! Sau đó câu chuyện của hai người chuyển sang những đề tài quen thuộc – nói nói cười cười vui vẻ ! Rồi cũng đến lúc đôi bạn tạm biệt ! Trang rời khỏi nhà bạn, trên đường về, trong tiềm thức vẫn nghĩ về câu chuyện của bạn với bức thư “Kính Thưa Chàng” ! Cho tới khi trở về đến nhà, rồi vào phòng mình, hầu như Trang vẫn không ngừng thỉnh thỏang lại tự nhủ thầm: • Đúng là cô bạn hiền của mình ! Và cũng đúng là chuyện một người vợ hiền ! Doãn Quốc Sỹ |
| Chiếc chiếu hoa cạp điều! Doãn Quốc Sỹ Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang. Đến năm 1948 khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì toàn thể gia đình chúng tôi ai nấy đều có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng. – Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi – lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi – chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa. Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói thác: – Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc nhưng nay vì có nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm. Cậu tôi không chịu: – Anh chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh có em, vừa tránh được nạn sốt rét rừng vừa có cơ buôn bán khá. (Dạo đó Vĩnh Yên còn là cửa ngõ của việc thông thương giữa Liên khu III với Bắc Việt). Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên, nhất quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả. Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên, còn một mình tôi ở lại Sở Thông Tin Liên khu I. Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng chiến trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi buồn gia đình phân cách đôi nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi trở về trụ sở kiểm điểm công tác. Trụ Sở Thông Tin ở một làng bên tả ngạn sông Thương, gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang, bến đò Lục Liễu. Để tăng phần thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là “Bến đò liễu xanh”. Thư của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới tản cư cùng làng với gia đình cậu mợ tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là Vĩnh Yên, bên kia là Sơn Tây rất thuận tiện cho việc buôn bán. Rủi thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì quân Pháp mở chiến dịch càn quét khắp vùng Sơn Tây rồi thiết lập thêm đồn quân dọc theo hữu ngạn sông Hồng từ Sơn Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao thông với Liên khu III đều bị quân Lê Dương phục kích ráo riết. Cậu tôi đã rơi vào ổ phục kích của chúng, dấn vốn khánh tận may thoát được người. Mẹ tôi phải ngừng chuyện buôn bán. Nghe nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần chân dãy núi Tam Đảo là một làng trù mật, chuyên bán đỗ, gia đình tôi bèn chuyển đến đây theo sáng kiến của mẹ tôi. khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình đã nhầm. Trước đấy một năm thì địa điểm này buôn bán được vì hầu như dân chúng toàn hạt Vĩnh Yên đổ xô về để tránh Pháp tấn công, nhưng nay, tình hình tạm yên ai nấy trở về chốn cũ, địa điểm N.H. trở lại chốn trầm mặt của chốn chuyển tiếp giữa vùng trung du bên dưới với vùng đèo heo hút gió bên trên. Vừa lúc đó tôi xin thôi ở sở Thông Tin về. Mẹ tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói: “Thời loạn lạc gia đình nên gần nhau nhỡ có thế nào…”. Hình như trong óc người – có thể nói trong óc mỗi người trong gia đình tôi – đều luôn luôn lo sợ cảnh một người bị chết vì bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để nhìn nhận. Niềm vui đoàn tụ giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh trở lại huyện Yên Lạc. Lần này gia đình tôi không dám ở gần bến đò Rau nữa vì sợ phi cơ oanh tạc, mà ở một làng cách huyện Yên Lạc chừng gần một cây số. Gia đình cậu tôi ở ngay làng bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình chúng tôi cùng nghèo túng lắm, nghèo túng đến nỗi cậu mợ tôi, thày me tôi cũng không dám sang nhà thăm nhau, chỉ chiều chiều ra gặp nhau trên quãng đường đá nối huyện Yên Lạc với bến đò Rau. Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên. Chúng tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Huyện – cậu mợ tôi là những người làm chứng – nhưng đám cưới hoàn toàn êm ả, y như một đám cưới vụng trộm. Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu kịt đi về 20 cây số kiếm chút lãi. Ở Yên Thế tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa rừng ít lo bị địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng để tăng gia rau cỏ và nuôi được lợn gà. Về đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi thường có ý khép cửa giữa lại. Em gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo rẻ mà rồi tính ra lời lãi cũng chẳng được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng kinh tế này bằng câu: “Thóc gạo có tinh”, mẹ tôi làm tương gánh đi các chợ xa bán để kiếm thêm. Vợ tôi tạng người yếu nhưng khéo tay, không làm được việc nặng, nàng phụ trách những việc nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha muối vào nước tương… Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi tên theo học nốt năm thứ ba hy vọng ngày thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương họa có cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến các giáo sư thường từ nơi xa lại trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tự tìm tài liệu nghiên cứu thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo sư mới. Tôi triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những công việc nặng. Mùa đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn buốt như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng phải dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn chiếu của gia đình tôi thiếu mất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái chiếu rách mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên. – “Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ” – Nó vừa cười khoái trí vừa nói với tôi như vậy. Các em trai em gái tôi đã lớn cả, chúng tôi hầu như thường thi đua trong việc nhường nhịn nhau. Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về thằng em út của tôi. Nó còn nhỏ tuổi quá chưa thể tìm nguồn vui ở tinh thần để quên đói rét. Tương đối với cả nhà nó được mặc lành nhất. Nó mặc cái áo đỏ chót có những vệt chữ nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là chiếc câu đối người ta phúng bà tôi hồi chưa tác chiến). Câu đối đỏ thì may áo, còn nẹp sa teng vàng mẹ tôi cố gạn may thêm cho nó chiếc áo di-lê. Chúng tôi gọi đùa nó là “anh cờ đỏ sao vàng”. Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó thường khóc khậm khạch. Chỉ cần có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm. – “Chiếu cói kỵ gió”. Mẹ tôi bảo thế. Nhưng đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi mua được đôi chiếu bây giờ? Hôm đó suốt từ sáng sớm đến trưa phi cơ bay từng đoàn bắn phá và dội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc… Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi có mặt ở nhà. Ngày đó giời đã xế chiều mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột tuy không ai nói một câu. Chiều ngả màu xẫm. Gió bấc rít trong bụi tre già làm nền cho tiếng khàn khàn của lũ quạ lục đục trong ổ, gió bấc xoáy từng vòng cuồng loạn dứt từng vốc lá tre, lá bưởi vàng úa rồi lại nhào vút mất hút ra ngoài cánh đồng bát ngát hiu quạnh. Mẹ tôi vẫn chưa về. Trong óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi cơ tàn phá, những hình người không kịp xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều tay còn quờ ôm những đồ hàng của mình, những hình người bị bom napalm thiêu rụi như những thân chuối cháy đen… Và tôi vùng ra cổng. Thày tôi biết ý hẹn với: – Con cứ thẳng đường ra bến Rau. Mẹ con thường về đường ấy. Ra tới cổng làng, tôi đi như bay theo đường đã định, cổ họng nghẹn ngào, dạ cồn lên như lửa đốt. Con đường như rộng thênh thang, cánh đồng ngập trong bóng chiều xẫm và trong gió bấc, càng trở thành mênh mông. Tôi vun vút nhảy qua các hố phá hoại mà đi như một bóng ma cô độc đương muốn biến theo luồng gió. Từ xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó ở chợ Rau về. Để tôi phải hỏi tin tức về việc phi cơ oanh tạc hôm nay. Hình như trên đòn gánh người đó có vắt ngang một cái gì. Tôi lướt vội lên. Trời ơi, mẹ tôi! Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở cửa âm ti. Tôi hỏi: “Sao mẹ về muộn thế, cả nhà lo tưởng phát điên lên”. Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn bên lạch. Đó là chiếc chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần ba. Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh nói: – Về đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm nay thằng Tư – tên thằng em út tôi – có chiếu đắp ấm. – Mẹ ơi, “giàu con út, khó con út”, mẹ chẳng để ý gì đến chúng con, chỉ chăm chút cho chú Tư thôi. Mẹ tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi mất hút về phía sau. tuy nghe tiếng được tiếng không nhưng mẹ tôi vẫn hiểu câu nói đùa. Người vừa giữ cái chiếu vừa quay nhìn tôi mỉm cười. Tối hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bí tất cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó khỏi “thoát ly” ra ngoài. Dạo đó chỉ còn một tháng nữa là tết. Tôi lại có dịp tạm rời trường Luật, đợi đến qua giêng mới có giáo sư. Tôi về vừa đúng lúc gia đình đương cần nhân công xay thóc giã gạo. Dấn vốn của gia đình tôi còn đong được năm nồi thóc. Dùng số tiền đó làm tiền đặt mẹ tôi có thể đong về được tám nồi. Theo như mẹ tôi phác tính mỗi nồi thóc làm, được lợi ít ra là hai ca gạo, vị chi với tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ như vậy mà đủ việc liền trong một tháng, nghĩa là vừa đến tết, thì chúng tôi có thừa tiền đong gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng chiến tương đối huy hoàng. Chúng tôi ngoại giao ổn thỏa với các nhà có cối xay cối giã rồi bắt đầu vào việc. Thầy tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn cơm nước. Tôi và thằng em giai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và cô em gái sàng gạo. Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ và em tôi sàng tấm sẩy cám đến đấy. Trong khi xay thóc tôi nhẩm ôn các đạo luật, các án lệ để sửa soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã gạo với vợ, tôi cùng nàng thủ thỉ xây mộng tương lai. Ngày kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã có những đứa con kháu khỉnh, đã trở về quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự do bình dị trong tổ ấm gia đình. Ngày đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với số gạo dư là hai nồi. Một cụ già ở đấy gật gù nói: “Vạn sự xuất ư nho, đúng thật. Học trò thì cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà nội không chịu được lam lũ!” Ngày hôm sau có tin quân Pháp đánh lên Vĩnh yên. Những người có thóc giữ lại. mẹ tôi phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá cao sáu nồi thóc để chúng tôi có việc làm. Quân Pháp chiếm Vĩnh Yên. Tiền Hồ Chí Minh sụt giá vùn vụt. Vẫn số tiền cũ giờ đây chưa chắc mẹ tôi đã mua nổi bốn nồi thóc. Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Me. Dân chúng xao xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy lộn. Chúng tôi ăn một bữa quà bánh đúc, lúc giả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn ảnh những ngày đầu xuân có gạo nếp, có thịt gà, thịt lợn bị giập vùi trong khói súng và biến thành một điểm mong manh chết đuối giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom đạn tơi bời cha lạc con vợ lạc chồng, anh em tán loạn mỗi người một phương. Dạo đó tuy đã có phong trào “rèn cán chỉnh cơ” nhưng chưa có cố vấn Tàu, chưa có chính sách “ba cùng”, học tập đấu tố nên mặc dầu kinh tế nguy ngập ai nấy vẫn tin tưởng ở ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của già Hồ (như lời tuyên truyền phát thanh chiều chiều). Sang hạ tuần tháng chạp, suốt ngày mưa phùn gió bấc lạnh như cắt ruột. Không hiểu là vì rét nhiều hơn hay là vì chúng tôi đã bắt đầu giảm khẩu phần! Chiếc chiếu mẹ tôi vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã rách sơ sác. Trong khi gia đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng cơm manh chiếu thì xảy cuộc hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội Kháng Chiến ở chân núi Tam Đảo. Để giữ vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh Yên. Tướng Pháp De L. quyết định hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom tận diệt đôi bên. (Trong cái điên ba của một cuộc thế lọc lừa phản trắc, người ta dày xéo lên tình người, điềm nhiên hy sinh xương máu đồng bào đồng loại nơi này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp. Tôi không ghê tởm những bộ mặt lãnh tụ như chúng sao được?) Từ chân núi Tam Đảo quân Pháp đánh tỏa ra ba mặt, đồng thời từ hữu ngạn sông Hồng, một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến Rau ở tả ngạn. Dân chúng từ bốn mặt chạy về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng. Mẹ tôi bèn thổi cơm hàng gánh đến bán cho họ. Trong số rất đông các người ở làng Rau mang đồ đạc chạy đến làng Lũng Thượng, có gia đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ nhà nơi tôi tản cư. Ông Lý nói chuyện với thầy tôi rất tương đắc nhất là khi ông biết tôi đương học trường luật thi ra thẩm phán. Ông nói: – Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho làm người, sau này kháng chiến thành công, tôi nhất định sẽ gởi cháu lên Hà Nội phiền ông bà và cậu Cả trông nom giúp cho thành thân người. Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút lui về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn tết. Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh. Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên. Mẹ tôi nói: “Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!” Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới thấy thằng em út tôi có chiếc chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bí tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc giây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế là từ đây đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. Hai ngày sau, tới buổi sớm ba mươi tết, khi sực tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ tưng bừng hơn vì những tiếng bàn tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài đường xóm. Tôi vùng dậy ra thẳng ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm ả vô cùng. Tôi gặp mọi người mắt ai nấy sáng sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp các tường làng đều đã kẻ khẩu hiệu: “Chuẩn bị tổng phản công”. Đồng bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận cửa, đồng bào địa phương hơi có vẻ ngậm ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã điểm. Buổi trưa hôm đó ông Lý Cựu từ làng Rau mang theo vài thứ xa xỉ phẩm làm quà biếu ông chủ nhà vào dịp tết. Ông Lý Cựu có xuống căn nhà dưới thăm thầy tôi. Câu chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ thì ông ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở giây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn: – Chiếc chiếu này của tôi Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng của một người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến. Người nói: – “Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi…” Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ. Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn nách rồi thản nhiên nói: – Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cặp điều từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia. Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra giải ở bụi tre nghỉ tạm, lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ cũ. Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết sự thể là vậy nhưng tôi vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi: – Chiếc chiếu này mẹ mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếc chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán). Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết: – Không, chiếc chiếu này của tôi. Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó tôi cũng vừa trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra làm thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng. Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ: – Thôi, sang giêng trời bắt đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản công rồi! “Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!” – mẹ tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở về dựng lại quê hương yên vui. Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác cũng như chúng tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó – kể cả hy sinh một chút danh dự cho sự yếu đuối thường tình của con người – tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy vẫn sống ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang. Sớm mùng một năm đó mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho chóng trở lại ỵên bình, gia đình được qua thì đói khỏi thì loạn. Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe nước mắt như muốn trào ra. Cộng sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để chứng minh nguyên lý “Vật chất quyết định hết thảy”. Chúng lầm! Con người càng từng trải cảnh thiếu thốn vật chất, niềm tin và đạo đức càng được hun đúc và tình cảm thêm dạt dào. Sau này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào Nam tôi còn trải qua nhiều gian lao nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng dù nghèo túng đến đâu, dù bị khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất với tôi vẫn là chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có vậy. Cách đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa Phát Diệm ở đường Hai mươi về giải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ tôi chợt úp mặt vào hai bàn tay trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều khi xưa. Chuyện đó như biến thành chiếc phao xẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời khác xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành. Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn, ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành. Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm cười, khi ứa nước mắt các bạn bè thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của Trang Chu. Các bạn yêu quý của tôi! Các bạn có ngờ chăng thái độ hồn nhiên đó là kết quả của biết bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có chuyện Chiếc chiếu hoa cạp điều! |
| TÌNH QUÊ HƯƠNG CỦA THUÝ KIỀU Doãn Quốc Sỹ Phẫn nộ về thái độ “hèn kém” của Thuý Kiều chịu hầu rượu Hồ Tôn Hiến, Tản Đà có bài Đường luật vịnh Kiều như sau: Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran Tướng quân chi tiếc cánh hoa tàn Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan. Tổng đốc ví thương người mệnh bạc Tiền Đường chưa chắc má hồng nhan. Trơ trơ nấm đất bờ sông nọ, Hồn có nghe xa mấy giọng đàn. Đào Duy Anh viết trong cuốn Khảo luận về Kim Vân Kiều: “Khi Từ Hải chết rồi, Hồ Tôn Hiến đã không thương hại cho một người đàn bà vì nhẹ dạ tin người mà giết chồng, lại không biết ơn người giúp mình dẹp yên được giặc để lập công, nỡ lòng bắt Thuý Kiều đánh đàn hầu rượu. Ta đã thấy Hồ Tôn Hiến bất tín với những hùng tướng thì cử chỉ của Hồ đây cũng không đủ khiến ta lạ, nhưng ta phải lấy làm lạ rằng Thuý Kiều vừa mới chôn chồng xong, người chồng bỏ mạng vì mình, thế mà còn ngồi đánh đàn hầu rượu cho kẻ giết chồng mình được. Ta có thể dễ hiểu được nếu Thuý Kiều gắng ẩn nhẫn ngồi hầu chờ Hồ Tôn Hiến say mà rửa thù hoặc nếu Thuý Kiều không lập tâm báo cừu thì cũng mắng vào mặt kẻ vừa lừa giết chồng mình mà còn toan cử chỉ bất chính với mình. Nàng là người đã đem thân chịu đựng bao nhiêu nỗi đau đớn ê chề, tưởng nay đã được yên thân và mong được về quê thăm cha mẹ với tình lang cũ, mà bỗng phút tan tành biết bao nhiêu hạnh phúc và hy vọng, thì mối chán nản không thể cho nàng còn có nghị lực mà tính và làm việc báo thù, nhưng trong cơn đau đớn và tức giận kẻ lừa mình nàng há lại sợ uy thế mà không dám mắng nhiếc sao? Vì sao Nguyễn Du có ngòi bút chắc chắn như thế mà chỗ này tả tâm lý Thuý Kiều lại sơ hở thế? Thật ra chỗ này Nguyễn Du chỉ theo khít nguyên văn mà nguyên văn thì rập lại cái khuôn truyện Thuý Kiều ở Ngu sơ tân chí, Nguyễn Du đọc tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân thấy Thuý Kiều nhẫn nhục ngồi hầu rượu Hồ Tôn Hiến mà nghĩ đến thân mình cũng ẩn nhẫn bấy nay mà không kịp nhận ra chỗ khác nhau của hai tình thế ấy và không thấy được vẻ bỉ ổi trong thái độ của Thuý Kiều. Song dẫu ta cố tìm lý do để hồi họ, ta cũng không thể chối được đó là một đoạn đáng tiếc nhất trong Đoạn trường tân thanh”. (Đào Duy Anh, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng Thư, Huế, 1943, trang 77-79) Trước lời kết tội của Đào Duy Anh, trước lời mỉa mai của Tản Đà, chúng ta bào chữa cho Thuý Kiều ra sao ở đoạn này? Tôi thiết nghĩ chúng ta có thể nêu tình quê tha thiết của Thuý Kiều. Trong suốt mười lăm năm luân lạc, một trong những tình cảm luôn luôn xáo động trong cùng thẳm tâm linh Thuý Kiều là tình nhớ quê hương. Nàng nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, nhớ nơi có cha già mẹ yếu, em thơ, nhớ nơi đã cùng chàng Kim thề thốt thuở bắt đầu. Giờ đây chúng ta hãy lần lượt nghiên cứu tình quê của Thuý Kiều từ ngày ra đi cho tới ngày tái ngộ. Nhớ nhà khi ra đi với Mã Giám Sinh Sau bữa tiệc tiễn đưa Vương ông ngoài mười dặm tràng đình, Kiều vĩnh biệt cùng cha mẹ và cảnh lên đường sao mà phũ phàng tàn bạo: Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay. Hiện tại sầu lạnh, tương lai mù mịt như cảnh vật trên bước đường lưu ly: Nàng thì cõi khách xa xăm, Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây. Kiều thấy tủi hổ trước vầng trăng thề nguyền với chàng Kim trước đây: Dặm khuya ngất tạnh mù khơi, Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Rồi dò cảnh: Rừng thu tùng biếc chen hồng gợi ý sự vật đang tàn tạ mà liên tưởng đến cha mẹ đương trở về già: Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. Ở đây Kiều nhớ Kim Trọng trước vì tới tuổi xuân của nàng, với mối tình đầu quý giá, với sự kiện nàng đã thất tiết với Mã Giám Sinh thì trong việc ra đi này ai là người thiệt thòi nhất, há không phải chàng Kim? Ngay từ lúc Mã Giám Sinh rước nàng về trú phường (nhà trọ), Kiều đã có ý tưởng thật là táo bạo: Biết thân đến trước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. Vì ai ngăn đón gió đông, Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi. Sau đó nàng mới nhớ đến cha mẹ, điều này có thể tha thứ được vì bổn phận đối với chữ hiếu có thể nói nàng đã làm đầy đủ một phần nào. Nhớ nhà khi ở lầu Ngưng Bích Sau một tháng ròng đi đường, Mã Giám Sinh đưa Kiều tới Lâm Tri. Nàng phản đối không chịu ra tiếp khách và tự vẫn… Tú Bà cứu kịp phải đấu dịu đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ “tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà”. Tới lầu Ngưng Bích khoá kín phòng xuân, giữa cảnh một bên thì biển khơi muôn trùng, một bên thì cát vàng cồn nọ, ở chung với nàng chỉ gần có bóng trăng, xa có vẻ núi. Vẫn những lý do trên đây nàng nhớ chàng Kim trước. Mối tình đầu tuy dang dở nhưng lòng yêu Kim Trọng mãnh liệt xúi nàng đoán rằng chàng vẫn còn mong đợi tin mình: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. và thương cho phận mình: Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gội rửa bao giờ cho phai? rồi nhớ đến cha mẹ và hai em: Xót những tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Lần này nhắc đến hai em, Kiều như có tự tôn mặc cảm: Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Kể cũng dễ hiểu vì Vương Quan là trai nhưng là con út. Thuý Vân thì vô tư lự. Điều này Kiều biết hơn ai hết: Vân đã trách Kiều bên mộ Đạm Tiên “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”. Khi Kiều đã bán mình và khóc cho mối tình dang dở trước khi ra đi với Mã Giám Sinh lúc đó Vân mới sực tỉnh giấc ngủ êm ái: Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han. Ông Vũ Trinh, quan tham bộ Hình đời trước, đọc đến chỗ này đã phải phát bẳn mà phê bình rằng: “Thuý Vân xuất hiện ba lần mà lần nào cũng trơ như hòn đá. Trong hội đoạn trường sao có kẻ ngu xuẩn như vậy, có Đạm Tiên còn làm gì nàng được nữa! Nàng chỉ đáng cho theo cái thói giàu sang làm bà quan là phải”. Tiện thể chúng ta nghiên cứu đoạn dưới nói về sự cô độc của Kiều trước cảnh trời cao biển rộng quanh lầu Ngưng Bích. Cảnh vật thật não nề sau tình cảm thương nhớ cố hương: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu. Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt nước một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đã có người giải thích rằng: Cứ mỗi câu Buồn trông… với một ảnh tượng thị giác có thật thì trong lòng Kiều lại nảy ra một ảnh tượng ảo hiện tương xứng trong ý nghĩ của Kiều về cuộc đời nàng. Nhìn cửa bể chiều hôm thì trong lòng nảy ra ảnh tượng thuyền lênh đênh, buồm thấp thoáng; nhìn ngọn nước thì trong lòng nảy ra ảnh tượng hoa trôi man mác. Nhìn nội cỏ thì trong lòng có ảnh tượng một màu xanh ngao ngán nối liền trời đất; nhìn gió cuốn mặt ghềnh thì trong lòng có ấn tượng tiếng sóng. Nhận xét trên đây đã tinh tế! Nhìn ra cửa bể chiều hôm Kiều thấy con thuyền với cánh buồm thấp thoáng. Thuyền vốn là hình ảnh lênh đênh trôi nổi (như cuộc đời trôi nổi của Kiều): Chiếc bách buồn vì sự nổi nênh, Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh. (“Chiếc bách” – Hồ Xuân Hương) Cánh buồm xa bao giờ cũng đẹp. Nó hiện ra đẹp đẽ như bóng hạnh phúc rồi qua đi (như hạnh phúc của Kiều): Trời biếc, én nghe chèo vỗ nước, Nhớ nhung ai tiếc cánh buồm xa. (Thế Lữ) Thấy thuyền, Kiều buồn về nỗi lênh đênh của mình, thấy buồm nghĩ đến hạnh phúc xa dần. Lòng đau đớn tê tái, tư tưởng càng mở rộng, nên khi nhìn ngọn nước mới sa Kiều như nhìn thấy bằng tâm tưởng – chỉ bằng tâm tưởng thôi – những “hoa trôi man mác biết là về đâu”. Bông hoa bị dòng nước cuốn đi chẳng biết sẽ trôi về đâu cũng như đời nàng bị dòng định mệnh cuốn đi rồi đây cũng chẳng biết sẽ trôi dạt ra sao. Có lẽ rùng rợn về những hình ảnh rộng lớn và chuyển động của biển cả của dòng nước, của thuyền lênh đênh, của mặt đất vững vàng những mong trốn thoát ý nghĩ trôi nổi, lênh đênh, nhưng ở đây trời đất tự xoá nhoà biên giới bằng một màu xanh ngao ngán, màu xanh của: Vương tôn du hề bất quy Phương thảo thanh hề thê the. (Ly tao – Khuất Nguyên) (Vương tôn ra đi không về Đồng phương thảo ngút ngàn xanh). màu xanh của: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. (Chinh phụ ngâm) hay: Trông bên nam bãi che mặt nước Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh. (Chinh phụ ngâm) Rời bỏ đất liền trở lại nhìn biển, Kiều như muốn nhắm nghiền mắt để khỏi phải nhìn lại những hình ảnh lênh đênh cũ, vì vậy thị giác nhường cho thính giác, ý nghĩ trôi nổi lênh đênh khuếch đại thành tiếng sóng, tiếng sóng bất tuyệt như mối sầu của nàng. Nhớ nhà khi ở lầu xanh Sau cả một đoạn văn dài 20 câu từ câu 1233: “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh…” đến câu 1253: “… Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau” tả nỗi đau lòng bi thiết của Kiều khi ở lầu xanh, tới đây nàng lại nhớ nhà nhưng lần này sự thương nhớ theo một trình tự khác: Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. Dặm ngàn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Sân hòe đôi chút thơ ngây, Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình? Nhớ lời nguyện ước ba sinh Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? Khi về hỏi liễu Chương đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay. Tình sầu mong trả nghĩa dày, Hoa kia đã chấp cây này cho chưa. Mở đầu một câu thơ đột ngột bày tỏ lòng vô cùng thương nhớ cha mẹ. Tình yêu cha mẹ được gợi lên với một ý nghĩa huyết thống của ơn sinh thành. Theo liền đó là hình ảnh não nề của cánh đồng dâu xanh dưới ánh chiều tà. Câu thứ ba tăng thêm sự buồn bã của câu thứ nhì và câu thứ tư diễn tả một ý nghĩa đầy màu tủi hổ. Lần này Kiều không nhớ Kim Trọng trước vì nàng tự thấy cuộc đời của mình đoạ lạc quá rồi chỉ có tình thương yêu cao rộng của cha mẹ mới bao dung nổi. Nghĩ đến hai em, Kiều vẫn giữ tự tôn mặc cảm không hiểu hai em có làm được đầy đủ bổn phận thay mình chăng. Nghĩ đến chàng Kim ngay câu đầu Kiều như muốn cầu xin lòng đại lượng của tình lang, những mong chàng hiểu thấu cho nỗi đau khổ của nàng. Sau đó chua xót và hổ thẹn: liễu Chương đài không những đã bẻ cho người khác mà còn rất nhiều người chuyền tay nhau nữa. Để tìm lối thoát, để tự an ủi mối tình dang dở của mình, nàng tự hỏi không biết em đã lấy chàng Kim chưa. Lời cầu khẩn “cho chưa” tỏ sự mong mỏi chí thành của Kiều vì nếu chuyện đó không thành, lời phụ ước còn mãi mãi. Nhớ nhà khi ở với Thúc Sinh Bóng dâu đã xế ngang đầu, Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi? Tóc thề đã chấm ngang vai, Nào lời non nước nào lời sắt son? Sắn bìm chút phận con con, Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? Ở với Thúc Sinh cuộc đời nàng Kiều tương đối yên, nhưng yên theo một thế quân bình bất ổn vì còn sợ Hoạn Thư. Các câu thơ diễn tả sự nhớ thương cha mẹ, sự hoài niệm tình cũ, rồi sự lo sợ về tương lai của chính mình đều là những câu hỏi không có lời giải đáp. Hiện tại còn bất ổn, tương lai chưa biết ra sao nên thái độ Kiều ở đây như ngại ngùng không muốn suy nghĩ đi sâu vào bất cứ vấn đề gì. Nhớ nhà sau khi đã lấy Từ Hải Quê hương quá xa cách (trong thời gian cũng như trong không gian) nhưng lòng nhớ quê chính vì thế càng trở nên vô cùng mãnh liệt: Đoái thương muôn dặm tử phần Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa. Nhớ đến cha mẹ, Kiều không nghĩ đến bổn phận nữa mà nghĩ đến sự đổi thay: Xót thay duyên cỗi xuân già Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi. Sự đày đoạ trong “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” đã khiến Kiều quen với ý nghĩ tình xưa đổ vỡ hoàn toàn. Giờ đây nhắc tới chàng Kim thì nói là nghĩa (bổn phận nhớ lời thề cũ) chứ không dám nói là tình nữa: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Vả nếu Thuý Vân đã lấy Kim Trọng thay mình thì cũng đã “tay bồng tay mang” rồi. Như vậy giữa nàng với Kiều tương quan đạo đức gia đình càng trở nên ngăn cách. Căn cứ vào câu “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng” mà bảo rằng tình xưa với chàng Kim đã nhạt cũng đúng. Ta phải hiểu khi nhắc đến chàng Kim, Kiều còn bồi hồi xúc động lắm nên chi mới phải tìm đủ cớ chứng minh rằng: tình không còn nữa chỉ còn nghĩa (bổn phận) thôi. Suốt mười lăm năm luân lạc, tình quê nồng nàn canh cánh bên lòng là vậy, Kiều tha thiết với quê hương đến nỗi Từ Hải cũng đã từng thông cảm mà rằng: Xét nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tàu cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng. Trước khi bàn với Từ Hải nên ra hàng, trong nhiều nguyên cớ cũng có nguyên cớ cố hương: Công tư vẹn cả hai bề Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha. Quê hương nơi kết tụ những hình ảnh quý báu (cha mẹ, em thơ, người tình). Quê hương nơi ý nghĩ của Kiều luôn luôn hướng về để gửi gắm và đồng thời kết tinh mọi sầu hận đã qua khiến chúng chợt lung linh đẹp như những vì sao. Quê hương một linh dược khả dĩ thoa dịu mọi sầu hận hiện tại. Với tình quê muôn vàn tha thiết đó Kiều tin rằng hễ được trở về quê là mọi sầu hận sẽ tan đi như ảo ảnh. Bão táp của đời biến thành gió thoảng mùa hè khi nàng nép dưới bóng quê hương như chàng Antée trong truyện thần thoại Hy Lạp dù sinh mạng có lâm nguy nhưng hễ gặp đất mẹ là hồi sinh. Tâm hồn và thân thể càng nhàu nát bản năng tự vệ càng hướng về quê hương, đó chính là lý do khiến nàng Kiều chịu nhẫn nhục đánh đàn, chuốc rượu cho Hồ Tôn Hiến: Rộng thương còn mảnh hồng quần Hơi tàn được thấy gốc phần là may. Nhưng lúc rạng ngày Hồ công sực tỉnh: Nghĩ mình phương diện quốc gia Quan trên nhắm xuống người ta trông vào. Và quyết định: Lệnh quan ai dám cãi lời Ép tình mới gán cho người thổ quan. Mộng quê hương tan tành, ngọn lửa tình cảm nhớ quê thoạt bừng bừng nay bị trận mưa lạnh của thực tế dập tắt ngấm, tiếng nói của lý trí độc tôn vang lên, tới đây Thuý Kiều mới cảm thấy hết cái bỉ ổi của mình khi vừa chôn chồng xong mà còn ngồi đánh đàn hầu rượu cho kẻ giết chồng mình. Với Kim Trọng, Kiều đạt đến cùng tột của mối tình lý tưởng cao nhã, với Từ Hải, Kiều đạt đến cùng tột của vinh quang, nhưng gặp Từ Hải là sự giễu cợt cuối cùng của định mệnh. Trèo cao ngã đau, từ là vợ Từ Hải qua Hồ Tôn Hiến đã là một vực một trời rồi, đến phải lấy thổ quan thì quả thật là: Ông tơ thực nhé đa đoan, Se tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên? Chẳng cần phải nhớ lại lời Đạm Tiên nhắn nhủ trong mộng, tới đây Kiều không còn lựa chọn nào hơn là sự chết. Ấy thế mà tới lúc nàng cảm nhận sự chết thì sự sống lại đến với nàng! Cái thần diệu của ngòi bút Nguyễn Du chính là ở đấy. Đọc Tây du ký ta thấy khi sắp tới chùa Linh Sơn, qua biển cả, Đường Tam Tạng được Tiếp Dẫn Bồ Tát hoá thành người lái thuyền ra đón. Thấy thuyền không đáy, không chèo, Đường Tam Tạng còn chần chừ thì Tôn Hành Giả đã đẩy thầy xuống. Đường Tam Tạng ngó thấy trên măt biển một cái thây trôi vật vờ mới hỏi đồ đệ rằng: “Đây là đất Tây phương cực lạc của nhà Phật sao lại có xác người nằm chết trôi ở đây?” Tôn Hành Giả đáp: “Thầy lại còn không biết ư? Đó là cái phàm thai thầy vừa rũ bỏ trước khi vào đất Phật đó”. Đường Tam Tạng khi ấy mới ý thức rằng đó chính là thể phách xưa của mình và phải một lần rũ bỏ phàm thai người mới đạt tới ý thức chân lý, tới đạo. Gieo mình xuống sông Tiền Đường há chẳng phải vì tuyệt vọng đến cực độ, Kiều muốn tự hủy nốt thân mình. Chính vì Kiều trải qua một lần chết thực sự như vậy nàng mới tỉnh ngộ mà ý thức được rằng hạnh phúc của thế nhân chỉ là tương đối, hạnh phúc thế nhân chỉ thể hiện đối lập tịnh hành với đau khổ. Thiên đường địa ngục, hạnh phúc sầu khổ chỉ là một màng ảo hoá Maya. Chân hạnh phúc không ở ngoài vào mà cốt ở thái độ an nhiên tự tại xây dựng trên sự sống không ham muốn. Chính vì vậy mà Kiều đã tìm thấy ánh trăng rộng lớn thanh bình trong một nếp sống thuần phác dưới thảo lư, bên Giác Duyên: Một nhà chung chạ sớm trưa, Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. Chính vì vậy mà trước cảnh rộng lớn: Bốn bề bát ngát xa trông. Nàng không bận lòng quê nữa, chỉ tiếp tục đắm hồn vào cảnh rộng lớn đó mà vui với âm thanh kia, màu sắc nọ: Triều dâng hôm sớm, mây hồng trước sau. Chính vì vậy mà khi cha mẹ, các em và chàng Kim tìm đến am mây nàng không muốn theo gia đình, tới nơi chàng Kim trị nhậm: Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi. Rồi nàng viện ra cớ mạnh để xin ở lại chùa là không nỡ dứt ơn cứu sống của Giác Duyên: Trùng sinh ơn nặng bể trời Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? Vương ông hứa sẽ lập am rước Giác Duyên về cùng tu, lúc đó Kiều mới không còn chối cãi vào đâu. Về tới nhà mở tiệc đoàn viên, Thuý Vân đề cập đến chuyện kết hôn, Thuý Kiều vội gạt đi. Kim Trọng viện lời thề cũ cũng bị nàng gạt nốt. Phải nhờ cả Vương ông, Vương bà, nghĩa là cả nhà hùa nhau vào một phe mới áp đảo được tấm lòng kiên quyết của nàng Kiều. Nhưng đến lúc động phòng hoa chúc chỉ còn nàng với chàng Kim đối diện – số phiếu thăng bằng – nàng mới thổ lộ hết lời, thuyết phục bằng được để chàng Kim đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ. Tâm lý nhân vật uyển chuyển, phức tạp mà vẫn hợp lý, ngòi bút kỳ diệu của Tiên Điền tiên sinh không hề một chút sơ hở. Doãn Quốc Sỹ |


