GÀ TRỐNG CHĂM CON- NĂNG KHIẾU

                                     GÀ TRỐNG CHĂM CON
         Nói đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 hầu hết những người dân miền Nam Việt Nam đều biết và nhớ mãi, cái ngày thống khổ đổ ập xuống như một cơn cuồng phong. Vào khoảng đầu tháng sáu, theo lệnh của Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn, Gia Định, kêu gọi tất cả Quân, Cán, Chính các cấp phải mang theo vật dụng cá nhân và lương thực trong 10 ngày hoặc một tháng. Ông Chu cùng hàng trăm, hàng ngàn người lũ lượt đi trình diện, xếp hàng rồng rắn trước các trường trung, tiểu học để được ghi danh “học tập chính sách của đảng và nhà nước”.
          Một tháng trôi qua nhanh, không thấy ai trong số những người tập trung “học tập” trở về. Tất cả đã vào tròng, Cộng Sản lộ nguyên hình con cáo già. Vào một đêm không trăng sao, ông Chu cùng bạn bè được đưa lên những chiếc xe bịt bùng, chở đến Long Khánh, tại căn cứ Sư Đoàn 18 Bộ Binh cũ được vài tháng. Rồi chuyển qua Long Giao chờ thanh lọc đưa ra Bắc. Sau những năm tù đày, từ Sơn La đến Vĩnh Phú, cái đói, cái rét của núi rừng nó hành hạ người tù, thật khủng khiếp không tả nổi. Ông Chu lại được đưa trở về miền Nam ở Gia-Ray một thời gian nữa, nhưng dù sao khí hậu trong Nam cũng ấm áp và được gần gia đình hơn.
 Thế rồi ông được thả về vào một buổi sáng mùa đông năm 1982, trên chuyến xe đò về Saigon ông đi cùng vài người bạn. Nhưng mỗi người một ngả, người thì về Thị Nghè, kẻ về Khánh Hội, còn ông về xứ đạo Nghĩa Hoà gần khu Ông Tạ. Các bạn đồng hành vui vẻ, háo hức vì sắp được đoàn tụ với gia đình vợ con. Riêng ông Chu vẻ mặt buồn hiu, lơ đãng nhìn cảnh vật lướt qua bên đường.       
Chiếc xe ôm rẽ vào con đường chính của xứ đạo, đến gần cổng nhà thờ thì thả ông xuống trước căn nhà lầu xây xinh xắn, lớp vôi trắng đã ố vàng theo thời gian. Chưa gõ cửa vội, ông đứng lặng nhìn căn nhà thân yêu, sau bao năm xa cách.
          Ra mở cửa chỉ có Hường, đứa cháu gọi ông bằng cậu. Không khí trong nhà ngột ngạt, yên lặng nặng nề. Ông bỏ chiếc ba lô đã bạc mầu xuống đất. Đứng nhìn những đồ vật quen thuộc, chiếc bàn, chiếc ghế, tủ chè, tủ đứng, đã từng ghi lại bao nỗi thăng trầm của gia đình, vẫn còn nguyên vẹn. Có tiếng mẹ ho trong buồng ngủ vọng ra, làm ông nhớ đến người cha đã mất hồi ông đang bị lưu đày biệt xứ, không thể về chịu tang được, ông buồn lắm.
Vài người hàng xóm đến hỏi thăm và chúc mừng. Nhưng ông Chu không vui, mẹ biết ý bảo ông nghỉ ngơi vài ngày, rồi con Hường đến nhà người em họ để hỏi địa chỉ đi kiếm vợ con, nghe đâu mẹ con nó về quê tuốt ở Lâm Đồng Đà Lạt. Ông đưa mắt nhìn con Hường đang đứng trước mặt, to xác nhưng đầu óc nó như đứa trẻ con. Hường là đứa cháu ngoại mẹ ông nuôi từ nhỏ. Khoảng đầu thập niên sáu mươi, lúc ông đang ôn thi trung học, thì nghe tin người chị lớn nhất, sanh ra một đứa con gái bị sứt môi xấu xí, sợ xóm làng bà con chê cười chị lén đem vào gửi trong cô nhi viện, mẹ ông biết được đến rước về như nhận một đứa con nuôi, bà đưa nó đi vá môi coi cũng đỡ hơn, nhưng nói còn hơi ngọng. Hường rất ngoan nên ông Chu thương nó như con. Sau này đã làm cho vợ ông ghen tức và ghét nó vô cùng, vì lòng ganh tỵ ấy đã để lại hậu qủa mà đứa con gái nhỏ của ông phải gánh chịu.
 Đó là bé Liên, con bé mũm mĩm thật dễ thương, nhưng trong xóm ai cũng lấy làm lạ vì “cái môi vá tự nhiên” của nó, hỏi ra thì bà Uyên vợ ông Chu bực tức kể về một điều kỳ diệu và huyền bí. Vào cuối năm 1974 bà sinh con bé Liên, ông Chu đã nhờ một vị Bác Sĩ là bạn thân của ông đỡ đặc biệt cho bà, nhưng khi con bé vừa lọt lòng mẹ, đã làm cho các Bác Sĩ tại nhà thương ngạc nhiên, môi trên của nó có một cái sẹo dài ở gần nhân trung kéo từ lỗ mũi xuống môi, còn rõ những mũi chỉ khâu như người sứt môi được vá lại, bà vừa chỉ cho mọi người xem, vừa phân bua là từ lúc sinh ra môi nó đã như vậy.
          Trước kia vợ chồng ông Chu sống chung với cha mẹ, vì ông Chu là con út, các anh chị ông đã có gia đình và đều ở riêng. Rồi sau ngày đổi đời, bà Uyên mất việc trong Ngân hàng, chồng đi tù cải tạo, một nách ba đứa con dại, bà không biết làm gì để sống, may nhờ mẹ chồng cũng có của ăn của để, nên thoạt đầu bà không phải vất vả buôn đầu chợ bán cuối chợ, chạy bữa sáng mất bữa tối, như các bạn cùng hoàn cảnh. Nhưng rồi “miệng ăn núi lở” dần dần tiền dành dụm cũng vơi, mẹ chồng con dâu đâm ra xích mích.
 
Vốn dĩ ngày trước mẹ chồng đã không ưa gì nàng dâu này, vì cụ là người Bắc di cư ngoan đạo, còn bà Uyên người Đà Lạt bổn đạo mới. Mỗi sáng Chúa Nhật, ông Chu đi lễ thường đến trễ về sớm, nên cụ gọi dậy và mắng: “Mày cứ nằm ôm mãi cái hũ hèm à, dậy ngay đi lễ không thì muộn rồi!.!..” thế là bà Uyên chọc tức cụ, không trả lời, nằm ôm chặt chồng hơn. Đi đâu bà Uyên cũng kể như vậy rồi còn thêm: “Uyên rất ác cảm với mấy bà Bắc đội khăn mỏ quạ, đi xe buýt mà gặp mấy bà đó, không bao giờ tôi nhường chỗ”. Rồi bà nói như oán trách: “tiền của cụ còn nhiều mà bây giờ cho mẹ con tôi ăn riêng, mỗi tháng chỉ đong cho một bao gạo và một chai nước mắm”. Thế rồi bà lấy cớ là cụ không đưa tiền, nên từ đó bà không đi thăm chồng nữa.
 
Lại nói về Hường. Nó rất được việc, thỉnh thoảng có giấy báo thăm nuôi gửi về mà mợ nó lờ đi, thì bà ngoại mua đường, đậu, thịt chà bông, mắm ruốc, cá khô….Lên phường xin giấy phép đi đường, rồi gửi nó theo mấy người quen có chồng tù cải tạo cùng địa chỉ với ông Chu, để đi tiếp tế cho cậu. Thế nhưng khi con Hường đi thăm ông Chu về, bà Uyên đến tận nhà người dẫn nó theo để chì chiết trách móc: “Tại sao chị lại chỉ đường, chỉ lối cho nó đi thăm chồng của tôi”. Thật là trớ trêu! Cứ thế cơm không lành canh không ngọt, không khí trong nhà như địa ngục. Rồi một hôm, bà Uyên đòi mẹ chồng cho một số tiền để về quê làm ăn. Cụ sẵn lòng nhưng bảo với bà: “Chị đi đâu thì đi, để các đứa cháu lại cho tôi nuôi”.
Bà Uyên biết cụ rất thương cháu, nhưng phớt lờ cứ dẫn con theo. Quê bà Uyên ở vùng Đa Thiện Đà lạt, nơi đây sống bằng nghề trồng rau và cây ăn trái như: Dâu, bơ, hồng, đào, đặc biệt là atiso một loại đặc sản nổi tiếng ở Đà lạt. Cha mẹ bà gốc người Phan Rang vào làm ăn tại đây đã mấy đời. Nhưng song thân bà mất đã lâu, bây giờ chỉ còn người bác già yếu. Bà Uyên không quen việc trồng cấy, ra thuê căn nhà nhỏ gần phố để dễ làm ăn hơn. Bà để liều đứa lớn trông đứa bé, rồi đi kiếm việc làm. Mới đầu bà xin làm ở tiệm chuyên may quần áo bỏ mối, dễ nhưng  không làm được vì chân tay vụng về. Bà đổi qua luộc khoai lang bán dạo, nhưng không biết cách luộc, củ khoai quả chuối vớt ra, thâm đen không ai mua, lại bưng về mẹ con ăn trừ bữa.
Sau này bà theo bạn bè buôn hàng chuyến, lúc thì xuống miền Tây mua gạo về bỏ mối, lúc thì ra tận miền Trung buôn thuốc tây, toàn đồ quốc cấm. Không quen tính toán suýt mất vốn mấy lần. Sau cùng bà Uyên đành hùn hạp với một gã chuyên mánh mung, vì “đi buôn có bạn, bán có phường”. Bà Uyên đi từ sáng tới chiều tối mới về, để lũ con nheo nhóc. Thằng Chiến lớn nhất hơn mười tuổi, đã hiểu chuyện, nó luôn tỏ ra bất mãn với mẹ. Một bữa gã đàn ông hùn hạp khoảng ngoài năm mươi, đậm nét phong trần, theo mẹ nó về nhà ở. Nó chống đối ra mặt, sau một hồi cãi vã bị ăn hai cái tát, nó liền bỏ nhà ra đi!
Thằng Chiến lang thang mấy ngày bụng đói meo. Nó lần mò đến những quán ăn ngoài chợ xin rửa chén và dọn dẹp. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp lại chịu khó làm việc, bà chủ trả công, còn cho chén cơm, nó ngồi chồm hổm ở góc bếp ăn lấy ăn để. Đêm đến nó ngủ ngoài hiên các cửa hàng có mái nhô ra, mặt nó lúc nào cũng gườm gườm không cười không nói. Mỗi lần nó đi ngang quán cà-phê đầu đường, mấy anh thanh niên vô công rỗi nghề, chỉ chỏ bàn tán: “Thằng nhỏ đó, nghe nói ba nó đi ‘cải tạo’ ngoài Bắc, má nó cặp với thằng cha trùm buôn lậu”. Chiến giả bộ không nghe, đầu cúi gằm lủi nhanh như ma đuổi.
Nhưng rồi ít lâu sau, những thằng bạn xấu, đã rủ nó đi xa nơi quen biết, đến bến xe hành nghề móc túi, rạch giỏ, lúc ẩn lúc hiện trong các chợ búa, rạp hát đông người qua lại. Mới có mấy tháng mà thằng Chiến khác hẳn, mấy thằng bạn nó trông mới ghê, mặt mũi lem luốc, đen đủi, con mắt lấm lét láo liên, đầy gian manh. Chúng luôn thay đổi địa bàn để tránh công an truy lùng.
Dù đi đâu, thỉnh thoảng thằng Chiến cũng quay về xóm lao động, nơi căn nhà có má và em nó, để nghe ngóng tin tức ba. Vì nó nghe người ta đồn, dạo này tù cải tạo được thả về nhiều lắm, nó hy vọng một ngày rất gần ba sẽ đón anh em nó về nuôi. Sau này nó ghé về thường xuyên hơn, rồi dặn em  khi nào ba về thì cho nó biết ngay. Mấy bà hàng xóm tốt bụng an ủi, Tết này thế nào ba mày cũng về. Nghe thế anh em nó mừng ra mặt. Chiến tưởng tượng ra cảnh gia đình xum họp cùng nhau ăn một cái Tết đoàn tụ. Ba nó sẽ mua nhiều bánh mứt ngon, quần áo mới cho chúng. Nó lại được cắp sách đến trường, không bị những cặp mắt tò mò khinh rẻ của những người hàng xóm nhiều chuyện.
                                    *
 Theo lời chỉ dẫn của một người bà con bên vợ, ông Chu bắt chuyến xe đò sớm nhất. Từ Saigon lên Đà Lạt khoảng ba trăm cây số, ngồi trên xe đò bảy, tám tiếng đồng hồ mỏi lưng chùn gối. Đến nơi vào  một buổi chiều lãng đãng sương mù, thời tiết nơi đây thật mát mẻ dễ chịu, đã làm nỗi nôn nóng gặp vợ con của ông dịu xuống. Những cây hoa anh đào đang nghỉ đông, bất động bên đường, lá rụng hết, chồi cũng ngủ yên, chỉ còn trơ lại cành khô như những cánh tay gầy vươn xa. Tìm địa chỉ nằm sau nhà thờ Chính Toà Đà Lạt. Từ chợ Đà Lạt ông đi qua cầu Ông Đạo, rồi rẽ phải đi đến cuối đường Lê Đại Hành sẽ tiếp tục rẽ vào đường Trần Phú (trước là tên BS Yersin) nhìn lên ông đã thấy tượng con gà được đúc trên đỉnh tháp chuông cao chót vót, nên người ta còn gọi là Nhà Thờ Con Gà.
 Đi qua khuôn viên nhà thờ, ông xuống hết con dốc dài rồi quẹo phải men theo đường mòn, đi qua vườn mận nương theo triền đồi, tìm mãi mới thấy số nhà đã mờ nhạt. Cánh cửa khép hờ, ông gõ nhẹ rồi đứng chờ. Đứa con gái lớn đang ngồi viết bài đứng dậy ra mở cửa, khi thấy người lạ nó lễ phép chào. Đứa em đang chơi sau bếp cũng chạy lên ngơ ngác nhìn. Ông Chu bùi ngùi nhận ra chúng ngay, giang hai tay như muốn ôm các con vào lòng, giọng xúc động run run : “Thằng Chiến đâu? Con Bích, con Liên phải không? Ba đã về với các con đây” chúng mở lớn mắt ngỡ ngàng nhìn ông một lúc, rồi cũng chạy ùa đến ôm lấy ba. Vì chúng được coi hình và lúc trước bà nội hay nhắc nhở đến ba chúng nó.
Không thấy thằng Chiến đâu, ông Chu đang hỏi các con, thì nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, quay lại, chợt vợ ông xuất hiện trước cửa, chắc vừa đi đâu về ăn mặc tươm tất đẹp đẽ, tay bế đứa con chừng một tuổi. Bà Uyên khựng lại không bước đến, chỉ nhìn ông không nói được gì.
 Mấy đứa con mải chia nhau hộp bánh kẹo ông vừa đem từ Saigon lên, không để ý gì đến cha mẹ. Bà Uyên ngồi vào bàn đối diện, nước mắt chảy ra nghẹn ngào. Ông Chu cúi đầu lặng lẽ, nuốt lệ vào tim, bằng lòng với sự im lặng của mình. Ngước đôi mắt u buồn bà Uyên lúng túng nhìn ông như muốn nói gì rồi lại thôi. Một cảm giác ân hận muộn màng, lỡ bước sa chân rồi, như người lỡ tay làm vỡ chiếc bình pha lê hạnh phúc, một báu vật thiêng liêng quý giá của đời mình. Chồng ngồi đây, con ngồi đó, mà bà không dám nhìn, bao năm xa cách, ngày gặp lại chính ra phải mừng thì bà lại khóc!
Ông Chu hứa bỏ qua những lỗi lầm, khuyên bà hãy bỏ tất cả, trả đứa con ngoại tình cho cha nó, rồi về Saigon với ông và các con. Đúng ra ông không thể tha thứ cho vợ được, nhưng ông nghĩ đến con cái chúng cần phải có tình thương của người mẹ. Ông xót xa bảo vợ :
– Tôi đã biết hết mọi chuyện nhưng sẽ tha thứ cho mình! Hãy trở về cùng tôi lo cho các con.
 Dù ông Chu hứa bỏ qua, nhưng bà không đành lòng bỏ lại đứa con vô tội còn nhỏ dại, chỉ trả lời:
-Thôi, đã phóng lao thì phải theo lao, em không về ngôi nhà đó đâu!.…Mong anh hiểu và thông cảm.
Nghe bà trả lời dứt khoát vậy, ông không biết nói gì hơn chỉ hứa hẹn khi nào bà cần ông giúp đỡ, hoặc muốn quay về với gia đình ông cũng sẵn sàng.
  Sau bao năm tù đày gian khổ trong địa ngục trần gian, đã nếm đủ đắng cay của cuộc đời, bây giờ với thân phận một kẻ đang bị quản chế, mà chính sách hộ khẩu khắc nghiệt không thể đi hoặc đến những nơi mình muốn, nên sau khi thỏa thuận với vợ, phải đi tìm đứa con trai đầu lòng của ông ngay. Ông về thu xếp, đợi vào đầu niên học tới, sẽ đến bắt lại ba đứa con. Rồi ông thất thểu quay về một mình.
                    Chán ngán cảnh đời đen lẫn trắng.                        
                                      Hận người phụ nghĩa bạc như vôi.                            
                    Cúi mặt đất dày đành im tiếng.
                    Ngẩng đầu mây trắng ngạo nghễ trôi.  
                                                ( ST )                     
 
         Nhớ ngày ông mới về nhìn nhà cửa lạnh lẽo điêu tàn, gia đình tản mát, cha đã mất, mẹ thì già yếu, tại địa phương ông luôn bị theo dõi, đối xử phân biệt, lúc lên phường trình diện vừa chạm mặt  công an khu vực ông lại phải nghe những câu nói quen thuộc nhàm chán: “Anh đã được Cách Mạng khoan hồng cho về địa phương tiếp tục được giáo dục, để mau chóng trở thành con người của Xã Hội Chủ Nghĩa?..!.”. Rồi họ nói về điều kiện quy định của phường, trong vòng sáu tháng muốn có hộ khẩu thường trú thì phải có việc làm, nếu không thì ông buộc phải đi kinh tế mới.
                                                                     *
 Từ lúc đón các con về bao nhiêu thứ phải lo lắng, nhìn đàn con xanh xao, gầy còm lòng ông đau như thắt. Đã mấy tháng rồi ông Chu vẫn chưa tìm được việc làm, phần vì chưa có hộ khẩu, lý lịch lại quá tệ vì thế các xí nghiệp nhà nước không nơi nào nhận. Con Hường nấu nồi cháo lòng cho ông ngồi bán trước cửa nhà, kẻ đi qua người đi lại thương hại, bảo nhau ghé vào ăn ủng hộ cho ông, nên khoảng xế trưa là nồi cháo hết sạch bách, nhưng công an khu vực đến cảnh cáo ông không được buôn bán, phải đi lao động, vì buôn bán là ăn bám. Ông nghĩ ở thành phố mà không buôn bán thì làm gì có đất mà lao động, sau nhà ông chỉ còn miếng đất lộ thiên bằng manh chiếu để phơi quần áo, chứ trồng cấy được gì? Ông lại thất thểu đi tìm việc, thì may thay vào một buổi sáng đẹp trời vừa vào quán cà phê đầu lối ngồi chưa ấm chỗ, ông gặp một bạn học hồi xưa cũng đi tù “cải tạo” về, đang dựng chiếc  xích lô trước quán bước vào, nhận ra nhau vồn vã hỏi thăm, sau khi biết gia cảnh, người bạn liền chỉ cách và dẫn ông đến giới thiệu chủ quen cho ông thuê một chiếc xe xích lô. Ông mừng quá, sau khi ký giao kèo thuê xe, ông về nhà lấy tiền đặt cọc luôn.
 Sáng hôm sau ông thức dậy sớm hơn thường lệ, khoác vội chiếc áo đã sờn vai, cho hợp với chiếc mũ bạc màu, ngồi lên chiếc xe đạp cũ lặng lẽ đến nhận xe. Ông đẩy chiếc xích lô còn khá tốt, đến một con đường vắng mới dám leo lên yên xe cao quá tầm, vừa  tập lái, tập đạp cho quen chân, chiếc xe lắc qua lắc lại, có lúc leo lên lề, rồi lật ngang làm ông té xuống đất đau điếng, ông không nản tập đi, tập lại, bẻ tay lái qua trái, qua phải nhiều lần thì ông quen dần. Hôm sau ông vừa đón khách vừa thực hành và học hỏi thêm kinh nghiệm điều khiển xe.  
Nhưng có một điều lấn cấn đối với ông là tên những con đường cũ đã bị đổi theo vận nước, mà Cộng Sản Việt Nam muốn xoá đi những kỷ niệm của VNCH ngày xưa, như bài hát “Saigon Niềm Nhớ Không Tên” của NS Nguyễn Đình Toàn: “Saigon ơi! Ta mất người như người đã mất tên, như giòng sông nước quẩn quanh buồn, như người đi cách mặt xa lòng! Ta nhủ thầm em có nhớ không? Saigon ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao, trong niềm vui tiếng hỏi câu chào, sáng đời tươi thắm vạn sắc mầu, nay còn gì đâu.?.!….” Mặc dù thời còn đi học, ông Chu và các bạn cùng trang lứa thường lang thang rong chơi trên khắp các con đường của Thủ Đô Saigon, không con đường nào mà không biết. Vậy mà bây giờ đã bị thay đổi thành những tên xa lạ. Tệ hơn nữa khi lấy tên Hồ Chí Minh là tội đồ dân tộc, thủ phạm bán nước! Để thay cho một tên Saigon thân thương đã có tự bao đời, đã ăn sâu trong lòng những người miền Nam. Phải mất một thời gian ông mới quen được những tên đường mới khi người khách bất chợt phán: “Ông cho tôi đến đường Nguyễn thị nhỏ?.!..”, hay  có lần: “Bác xích lô ơi làm ơn chở tôi đến đường Hồ Tùng Mậu?.!” Ông phải mất vài phút gạn hỏi khách, đường đó thuộc quận mấy, ở hướng nào? Thì ra Nguyễn thị Nhỏ trước là đường Dương Công Trừng. Đường Hồ Tùng Mậu là đường Võ Di Nguy cũ. Ông thường đón khách tại những địa điểm xa nhà, không phải ông sợ người ta khi dể, vì ông nghĩ trên đời này không có nghề nào hèn, khi mình đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng cơm. Nhưng ông sợ bọn công an địa phương tìm cách làm khó dễ. Cũng nhờ ông có người anh họ là Chủ nhiệm Hợp Tác Xã tổ hợp dệt mền chỉ ở ấp Bùi Môn, Hốc Môn cấp cho ông tờ giấy chứng nhận ông là xã viên của HTX. Nên ông đạp xích lô cả mấy tháng mà cán bộ trên phường vẫn chưa biết, họ tưởng ông là công nhân đi dệt gia công.
 Dù khó khăn vất vả làm vậy, nhưng ông Chu không còn lo phải đuổi đi “kinh tế mới”. Ban ngày thì còng lưng đạp xe, hôm nào xui gặp phải cuốc hàng nặng cả trăm ký, hay bà khách “ăn gì to béo đẫy đà” thì ông đạp đổ mồ hôi trên vã mồ hôi dưới mà về đến nhà còn phải vào bếp nấu cơm, bỏ hộp sẵn sáng mai đem theo ăn, đỡ tốn tiền cơm hàng cháo chợ, rồi quay qua giặt bộ quần áo dầy cộm bám đầy bụi đường. Tối đến lại phải dạy kèm cho các con.
Điều an ủi cho ông Chu là Con Bích, con Liên vừa ngoan vừa chăm học, chúng biết thân biết phận sáng ra chẳng đợi ông gọi, chúng dậy sớm tự đi lấy cơm nguội ăn với dưa cải chua, rồi mặc quần áo đeo cặp đi học, con nhà nghèo vậy mà năm nào cũng được giấy khen học sinh giỏi, đem về khoe ba. Chỉ tội thỉnh thoảng con Liên lại nhắc đến mẹ, nó khóc hưng hức nước mắt nước mũi tèm lem rồi cong cái môi có vết sẹo bẩm sinh oan nghiệt, nấc lên: “Con nhớ mẹ quá ba ơi!”. Ông Chu ôm con vào lòng dỗ dành: “Nín đi con! Mai mốt mẹ nghĩ lại sẽ trở về với con mà”. An ủi con như đang an ủi mình, bởi lòng ông vẫn thầm mong chờ một bóng người, trong giấc ngủ ông thường mơ thấy vợ về gương mặt mang một vẻ buồn hắt hiu. Có hôm giật mình thức giấc, nửa đêm về sáng căn nhà yên ắng nghe rõ từng tiếng thở của các con. Không ngủ được, ông lần bước xuống cầu thang, ở nhà dưới mẹ ông cũng khó ngủ đang ngồi trong màn, tay cầm cỗ tràng hạt, vài sợi tóc bạc loà xoà rũ xuống khuôn mặt khắc khổ, hiền lành. Ông muốn đến nói chuyện với mẹ, nhưng thấy cụ đang lâm râm đọc kinh, ông im lặng ngồi bệt xuống bậc cầu thang, tay đập lia lịa lũ muỗi đói vo ve  bâu quanh mình. Nhìn cảnh “phòng không nhà trống” nơi nào ông cũng thấy hình ảnh vợ, từ trong nhà bếp ra tới phòng khách, đến chiếc ghế sofa hai vợ chồng hay ngồi xem TV sau bữa cơm chiều. Đã mấy mùa mưa nắng kể từ ngày ông thoát khỏi ngục tù, mà vợ ông vẫn biền biệt tin tức, không biết giờ này người vợ vô tâm ấy đang làm gì và ở đâu?….Bỏ lại cha con ông một khoảng trống vắng không gì lấp nổi. Ước mơ đơn sơ của ông là mong có một cuộc sống đủ vợ đủ chồng lo cho con cái, mà sao xa vời quá!.
Ông dạy các con từ tri thức đến lễ nghĩa. Nhưng thằng Chiến vì bỏ học dở dang nên sức học yếu hẳn không theo kịp các bạn trong lớp dù ông luôn kiên nhẫn kèm cặp. Tội nghiệp nó đã phải trải qua khoảng thời gian thiếu thốn tình cảm, và chịu đựng sự tổn thương về tinh thần quá lớn, nó cứ tưởng ba về sẽ có cha mẹ bên cạnh yêu thương, mà đã lâu nó thèm cái hạnh phúc của mái ấm gia đình, nhưng rồi mơ ước không thành, nó bị khủng hoảng tinh thần. Ông Chu lại không hiểu con, ông thường đề ra các nguyên tắc mà ông cho là chuẩn mực và bắt các con theo, như lúc nào cũng chăm chú, không học bài thì đọc sách. Đi đâu phải xin phép, lúc về phải đúng giờ. Nguyên tắc ấy không phù hợp với một đứa trẻ có cá tính như thằng Chiến, luôn có suy nghĩ và hành động muốn vượt ra ngoài khuôn khổ, như con ngựa bất kham, không thể sống theo khuôn phép, rồi đột nhiên nó thay đổi tâm tánh, đâm ra quậy phá. Thầy chủ nhiệm phải gửi giấy về thông báo và mời phụ huynh lên văn phòng liên tục. Ông Chu bực lắm đã phải đầu tắt mặt tối kiếm tiền về lo cho lũ con từ miếng cơm, manh áo, lại phải đối diện với một xã hội nhiễu nhương.
Cuộc sống vào những năm đầu thập niên tám mươi rất khó khăn, lương lãnh đạo, đảng viên cấp cao cấp thấp không đủ làm giầu, phải tham ô hối lộ. Lương cán bộ, công nhân không đủ sống phải mánh mung ăn cắp, ăn chặn. Thầy cô giáo còn thê thảm hơn, vì nhìn trước ngó sau toàn là giấy với bút đâu có ăn được, phải làm thêm nghề tay trái, chạy ngược chạy xuôi, buôn chui bán lậu, mới đủ nuôi gia đình, không còn thì giờ dành cho công việc đào tạo các mầm non của đất nước. Thực phẩm như bo bo, gạo mốc, phải mua bằng tem phiếu. Đã làm ảnh hưởng đến tâm lý của nhiều tầng lớp con người trong xã hội, khiến cách hành xử không khôn khéo, như ông Chu đã răn đe con bằng những lời gay gắt thậm chí nhiều lần còn dùng đến roi vọt, khiến thằng Chiến luôn trong tình trạng căng thẳng, cố gắng học, không thiết ăn uống, mỏi mệt vì thiếu ngủ, người nó càng ngày càng gầy rộc, rồi một hôm nó gục xuống không dậy nổi. Ông Chu phải đưa con đi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán nó bị trầm cảm, rối loạn tâm thần vì áp lực học tập quá sức. Sau một thời gian Bác sĩ cho uống thuốc thì bệnh khá hơn, nhưng thằng Chiến trở lên đờ đẫn, nói những câu không tự chủ. Có nhiều lần đi học không nhớ đường về, bố phải đi đến nhà bạn bè hỏi thăm và tìm nó. Thế rồi một buổi tối cuối năm vì nhiều mối hàng, ông Chu về đến nhà đã khuya mà không thấy con đâu, ông đến nhà vài người quen hỏi cũng không thấy, rồi vì mỏi mệt quá ông đã ngủ quên, đến sáng cũng không thấy con về, ông bỏ việc đi tìm nó khắp những nơi quen biết mà con hay đến, ai cũng lắc đầu nhìn ông ái ngại.
 Nghe mấy người hàng xóm nói, hôm trước có người nhìn thấy nó theo đoàn múa lân đi ngang chợ. Mẹ ông thương cháu bảo con Hường đi đăng báo tìm, tả hình dáng cao thấp, mặc quần áo màu gì, trạc bao nhiêu tuổi, nếu ai nhìn thấy làm ơn chỉ giùm, xin hâu tạ. Rồi một hôm nhận được tin, có người báo thấy nó ở bến xe Cần Thơ, liên lạc với địa chỉ theo sự hướng dẫn. Cụ sai con Hường xuống tới nơi, thì họ bảo nó đưa tiền trước rồi đứng chờ ngoài đầu hẻm, con Hường đứng chờ cả ngày không thấy gì, đành trở về. Cứ như thế từ Vĩnh Long đến Cà Mau Hường cũng tìm tới, nhưng “tiền mất tật mang”. Bà nội thương nhớ cháu moi hết những đồng tiền cuối cùng, cũng không thấy cháu đâu, cụ buồn đến phát bệnh ở tuổi tám mươi, nên đã bỏ con cháu ra đi vào mùa đông năm ấy, khi những chiếc lá khô đã rời khỏi cành.
Sau bao đau thương dồn dập đến, ông Chu không còn nước mắt để mà khóc, có lẽ bây giờ mới thấm câu “nước mất nhà tan” khóc lóc than van được ích lợi chi! Chỉ làm kẻ chiến thắng say men và cười nhạo thêm mà thôi.
 Mới ngoài năm mươi mà gương mặt ông trông nhăn nhúm âu sầu, bà con thấy cảnh gà trống chăm con của ông không suông sẻ, bởi: Nuôi con là thiên chức đàn bà/ Làm nhà là việc của đàn ông. Nên hè nhau mai mối, nhưng ông nghĩ các con đã xa mình từ nhỏ, giờ lại không có mẹ, nếu chẳng may gặp phải bà mẹ kế khắc nghiệt chúng sẽ khổ hơn, vì thế ông không thiết tha gì, cứ lầm lũi đi sớm về khuya quần quật quanh năm mà chỉ kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa mắm.
                                                         *
 Sau biết bao khó khăn, chạy vạy, vay mượn mới đủ tiền làm hồ sơ xin xuất cảnh. Bố con ông Chu đến Mỹ đầu hè năm 1993 theo diện H.O. Ngày lên đường ba bố con mà hành lý vỏn vẹn có 2 chiếc va-ly kéo tay, không đến một nửa trọng lượng theo tiêu chuẩn cho phép. Nhưng lòng ông Chu thì nặng trĩu những ưu tư phiền muộn, vì ra đi khi chưa thực hiện ước nguyện tìm lại đứa con trai bị thất lạc.
  Gia đình nhỏ bé của ông được một nhà thờ bảo trợ về California. Người trong hội thiện nguyện đưa đi làm giấy tờ thủ tục nhập gia, rồi giúp thuê một căn apartment hai phòng đầy đủ tiện nghi. Ngay tháng đầu ông đã trở lại “kiếp con trâu kéo cày” để kiếm tiền gửi về Việt Nam trả nợ tiền mượn làm hồ sơ. Hai đứa con ông chúng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh xã hội mới, chịu khó, siêng năng vừa học vừa làm. Thời gian qua mau chúng đã thành công, thành danh trên xứ sở văn minh đầy cơ hội này.
   Đến tuổi nghỉ hưu, ông Chu sống cô độc trong căn phòng Housing ở khu Senior Apartment. Các con đều đã có gia đình, có cơ ngơi riêng, con gái út mời ông về ở chung. Nhưng ban ngày ông đến coi cháu và chăm sóc sân trước vườn sau cho con, rồi lại về phòng riêng của ông trong villa (con gái ông gọi đùa như vậy)
 Đã bao năm rồi ông Chu vẫn không thể quên được nỗi đau vì để lạc mất đứa con trai duy nhất. Sự hối hận Đã gặm nhấm ông từng ngày, đã ám ảnh ông suốt đời..!.!..Người ta thường nói : “Sống với một trái tim tan vỡ, còn đau khổ hơn cái chết”. Những năm cuối đời ông chán nản vì già cả bệnh hoạn đã đành, tinh thần cũng suy xụp theo ký ức đau buồn!.
                                                                                                   NĂNG KHIẾU