| HAI GIA ĐÌNH TRONG XÓM NHỎ TT-Thái An Hai mẹ con bà xẩm dọn vào căn nhà váchgỗ của vợ chồng ông Văn vừa dọn ra hai hôm trước. Họ nhờ ba cái xe ba bánh chở hộ hai cái giường đã xếp lại, một cái bàn tròn cũng đã xếp chân riêng và cái mặt bàn riêng, vài ba cái ghế xếp, một cái tủ áo, rồi vài cái nồi, một cái chảo, hai cái lò gạch để chụm than đun bếp, 2 cái thau nhôm to có lẽ để giặt quần áo và tắm rửa, 2 cái rương quần áo bằng gỗ, và vài cái bao bố loại 1 tạ gạo đựng đồ lỉnh tinh. Cả xóm ra xem cho biết mặt mũi hai mẹ con người mới dọn vào. Họ xì xầm với nhau: -Chỉ có hai mẹ con thôi à? Bà này người Tàu vì mặc áo xẩm. Bà mẹ mặc áo xẩm cánh tay, mầu xám nhạt, quần đen. Cô con gái độ 12 hay 13 tuổi, mặc cái quần tây đen và cái áo sơ mi trắng. Cả hai mẹ con đều cắt tóc ngắn, kẹp lại hai bên cho tóc khỏi lòa xòa trước mặt. Bà mẹ dáng gầy gò, nước da xạm đen, đôi môi thâm. Cô con gái tròn trịa hơn, nước da trắng trẻo. Bà nhìn mọi người bu quanh và gật đầu chào nhưng chẳng nói gì. Có người trong đám đông cất tiềng: -Chào mẹ con bà nhé! Bà cất tiếng chào lại: -Chào mọi người. Những người đạp xe khuân đồ đạc vào nhà kê vào những chỗ bà chỉ. Xong xuôi, họ nhận tiền rồi ra về. Qua hôm sau, đứa con gái dậy sớm đi học, nó mặc đồng phục trường Tàu: váy xếp ly màu xanh dương và sơ mi trắng bỏ vào váy, ngực áo có thêu chữ Tàu mầu đỏ, có lẽ là tên. tay xách cái cặp lồng bằng mây đan. Bà mẹ đem cái ghế mây ra trước sân ngồi hút thuốc lá vấn, thỉnh thoảng bà ho xù xụ khi đàm kéo lên cổ. Bà không qua lại với hàng xóm, dù cạnh nhà bà là 1 gia đình người Tiều bà cũng chẳng hỏi han. Có người hỏi, bà nói bà là người Quảng Đông. Tiếng Việt của bà đủ xài để nói chuyện hàng ngày. Cái ghế của bà là nơi bà ngồi nhìn mọi người ra vào trong xóm. Hoặc có ai đứng lại hỏi han thì bà cũng chuyện trò với họ. Chồng bà chết sớm, bà chắt chiu mua được căn nhà gỗ nền gạch Tàu này, dài khoảng 20 mét, ngang 4 mét. Như thế khá rộng rãi cho hai mẹ con. Phía sau nhà có lối ra con hẻm sau dẫn đến giếng. Con gái bà tên Mì Ngã, còn bà tên Dế. Hai năm sau, khi Mì Ngã được 15 tuổi thì bỏ học, đi làm xưởng dệt Vinatexco. Cái xóm này có 3 cô Xẩm đi làm chung xưởng dệt nên cả ba ở lại xưởng, chiều thứ Bẩy độ 2 giờ được xe bus của xưởng chở về đến đầu hẽm. Sáng thứ Hai được xe bus của xưởng đến đón đi làm. Vì vậy, bà Dế hay ngồi trước cửa mỗi chiều để thỉnh thoảng có người đến nói chuyện với bà. Chẳng thấy bà làm gì, có lẽ Mì Ngã đem tiền về nuôi mẹ cũng đủ rồi. Khi Mì Ngã đã ngoài 20 mà chưa thấy ai đến cưới hỏi, người trong xóm xì xầm với nhau rằng “Nó vì nuôi mẹ mà ế chồng”. Khi Mì Ngã được 25 tuổi, người ta lại xì xầm “Nó thành gái già rồi”. Thế nhưng, một hôm, Mì Ngã không đi làm mà ở nhà mấy ngày sửa soạn trang hoàng nhà cửa ai cũng ngạc nhiên. Hỏi ra mới biết nàng sắp làm đám hỏi với 1 ông kỹ sư Đài Loan làm trong xưởng dệt. Chao ôi, tưởng ế mà hóa hên, lấy kỹ sư lên làm “bà kỹ sư”, bỏ nghề thợ dệt. Sau đám hỏi một tháng là đám cưới. Nhà trai chỉ có chú rể và chục người bạn hoặc có anh em gì bên Đài Loan qua hay không chẳng biết. Bà Dế diện xường xám dài quá đầu gối, cài 1 cái hoa hồng đỏ trên áo, cô dâu mặc áo dạ hội của cô dâu trắng tinh, tay cầm bó hoa to tướng, có hai cô phù dâu nâng bước. Họ ra nhà hàng với chú rể và bạn bè chú rể. Họ chẳng mời ai trong xóm. Bạn bè của cô dâu là mấy cô trong xưởng dệt, thân lắm mới được mời. Họ cầm giúp cô dâu chăn gối, rương quần áo để dọn nhà theo chồng từ đây. Nghe nói chú rể thuê một căn nhà lầu trong Chợ Lớn để làm tổ uyên ương. Trước đó chủ hãng dệt thuê cả căn nhà lầu nhiều tầng cho các ông kỹ sư Đài Loan ở chung. Sau đám cưới, Mì Ngã chẳng về thăm mẹ mỗi tuần như ngày còn đi làm xưởng. Có lẽ đó là phong tục của người Tàu, con gái về nhà chồng là chấm dứt qua lại nhà cha mẹ đẻ. Mỗi năm một lần, về thăm cha mẹ ngày mùng hai tết mà thôi. Nhưng Mì Ngã về thăm mẹ hai lần: trước Trung Thu một ngày thì về biếu mẹ vài hộp bánh trung thu. Tết ta, mùng hai, về mừng tuổi mẹ với bao lì xì. Bà Dế không lộ vẻ buồn phiền vì bà chấp nhận văn hóa của bà, con gái lấy chồng là thuộc về chồng và nhà chồng. Mỗi ngày bà vẫn ra chợ mua ít rau, thịt về nấu vừa một ngày. Chiều chiều, bà ra trước sân ngồi hóng gió và hút thuốc vấn. Thỉnh thoảng bà vẫn ho xù xụ khi có đàm kéo lên cổ. Nhưng một hôm chẳng thấy bà đi chợ, cửa đóng chứ không mở toang như hằng ngày khi bà đã thức dậy. Người trong xóm đến gõ cửa xem bà có sao không. Chẳng thấy bà trả lời, người ta kiếm cách mở cửa vào thì bà đã chết trên giường. Người ta đoán có́ lẽ bà lên cơn suyễn rồi tắt thở. Có người tìm địa chỉ của Mì Ngã, vào đến Chợ Lớn báo tin cho Mì Ngã. Mì Ngã về lo đám tang cho mẹ xong báo cho cả xóm biết người cậu ruột sẽ dẫn vợ con về đây ở vì Mì Ngã không cần căn nhà này, nàng để lại cho cậu. Cả xóm ngạc nhiên khi biết bà Dế có em trai vì chả bao giờ nghe bà nói đến em. Và cũng chẳng bao giờ thấy em bà đến thăm bà. Ngay cả lúc đám cưới Mì Ngã cũng chẳng mời cậu đến. Xem ra tình cảm của chị em bà lỏng lèo quá. Hai hôm sau, cậu Diệp dẫn bà vợ và bốn đứa con dọn vào. Đồ đạc chỉ cần 2 cái xe ba bánh chở đến, may là có sẵn đồ đạc trong nhà. Cậu Diệp có lẽ ngoài 40, vợ cậu người Việt. Hai con trai lớn sinh đôi, khoảng 11 tuổi tên Diệp Phát, Diệp Tài, đứa con trai thứ ba tên Diệp Phúc, đứa con gái út được gọi là Út Đẹp, khoảng 5 tuổi. Trông nó rất xinh, giống mẹ nhiều hơn giống bố. Bố nó trông giống y mẹ của Mì Ngã, nghĩa là gầy gầy, da bánh mật, môi thâm. Cậu Diệp nói tiếng Việt rất thạo vì phải nói tiếng Việt với vợ con hằng ngày. Hai đứa con trai lớn đang học lớp nhất (lớp Năm bây giờ) ở trường tiểu học công lập nên chúng chẳng biết tiềng Tàu hay chữ Tàu. Ngoài giờ học, chúng hay mặc quần sà lỏn, cởi trần, ra chơi với trẻ con trong xóm. Mấy anh em nó trông khỏe mạnh, rắn chắc và đẹp trai vì giống mẹ nhiều. Cậu Diệp có nghề sửa xe gắn máy, mỗi sáng cậu lái cái xe gắn máy cũ chở thùng đồ nghề ra một góc đường mà cậu ngồi đã lâu. Chiều chiều khoảng 6 giờ hơn cậu đã về nhà. Vợ cậu là thím Lài đã nấu xong bữa cơm chiều, chỉ chờ cậu về là dọn ra. Cả nhà quây quần bên mâm cơm còn nóng hổi vừa ăn vừa chuyện trò. Cơm nước xong, mấy đứa con trai phụ mẹ dọn dẹp. Sau đó chú Diệp đem cái đàn ghi ta thùng cũ kỹ và vài tờ nhạc rời ra cái bộ ván trước sân, cha đàn ca, con phụ họa vang cả góc sân. Mấy cha con chú chẳng sửa giọng cho đúng chánh tả, nói sao hát vậy nên bà Cam ở trước nhà hay nhăn nhó phê bình: -Hát dở ẹt mà cũng bầy đặt la cho to làm khổ tai tôi quá. -Nhưng đó là hạnh phúc của người ta. Nhà chú Diệp không có TV, máy hát gì hết nên tự đàn hát cho vui mà. Khi bản nhạc “Chuyện Tình của nàng Trinh Nữ tên Thi” của Hoàng Thi Thơ đang lên cao, đang dậy sóng trên đài phát thanh Sài Gòn mỗi ngày thì chú Diệp cũng mua cho được 1 bản đem về đàn hát với các con. Hát giọng Nam “chăm phần chăm” “Thì Thi phải biếc cớ sao Thi buồng” ai đi qua nghe thấy vừa buồn cười, vừa thương cảnh gia đình chú tuy nghèo nhưng hạnh phúc quá. Hai đứa con trai lớn vì không đậu được vào trường công nên chỉ học hết tiểu học là ở nhà, hai đứa thay phiên nhau theo cha đi sửa xe mỗi ngày. Vì chú Diệp muốn dạy nghề cho cả hai đứa. Sáu năm sau, khoảng tháng Giêng, năm 1975 khi anh em Diệp Phát và Diệp Tài vừa 17 tuổi thì cường độ chiến tranh gia tăng, quân Việt cộng từ Bắc đã xâm nhập khắp trên 4 vùng chiến thuật, lệnh tổng động viên ban bố thanh niên 17 tuổi phải tòng quân. Thím Lài đau lòng xếp cho hai anh em Phát và Tài một cái túi nhỏ đựng vài bộ áo cũ rồi dẫn con ra đầu ngõ đón xe. Vừa đi thím vừa khóc sưng cả mắt. Cô Chanh bán thịt bò từ ngoài ngõ về trông thấy hỏi ngay: -Ba mẹ con thím đi đâu mà khóc sướt mướt thế? Thím Lài trả lời: -Có lệnh tổng dộng viên 17 tuổi nên tôi phải đưa tụi nó đi Quang Trung trình diện. Cô Chanh ré lên: -Nếu như tôi, tôi đào hầm trong nhà dấu chúng nó chứ không cho đi lính ra nơi tên đạn đâu. Thím Lài trả lời: -Tôi không dám đâu, thôi thì ai sao mình vậy, tôi thương con tôi lắm mà cũng phải cho tụi nó đi. Vừa nói, thím Lài vừa nhìn hai con rồi lại òa khóc. Hai thàng con rấm rứt khóc theo mẹ. Nhưng thằng Phát nói: -Má đừng lo, tụi con sẽ về mà. Ra ngoài đường cái, có chiếc xích lô máy chạy tới, ba mẹ con bước lên trực chỉ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Thím lài ngồi giữa, hai tay thím ôm hai cánh tay của hai con như sợ phải xa chúng mãi mãi. Rồi ngày 30 tháng Tư năm 1975 tới, sáng đó khi radio phát tin Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố hàng quân Bắc Việt và quân “Giải Phóng miền Nam”, và khuyên binh sỹ Việt Nam Cộng Hòa bỏ súng xuống. Trại Quang Trung mở tung, quan và quân bỏ chạy, đường ai nấy về. Hai anh em thằng Phát, thằng Tài chạy trối chết ra khỏi trại đi nhờ xe từng đoạn, có đoạn chạy bộ. Đến quá trưa chúng về đến nhà, trông thấy cha mẹ mặt mày ngơ ngác, vừa mừng, vừa lo. Thím Lài ôm hai con vào lòng khóc nức nở vì thấy hai con con y nguyên trong lúc ngoài kia nhiều người lính VNCH đang ngã gục không về được đến nhà. Sau đó vài hôm, chú Diệp đem hai anh em Phát và Tài theo ra đường ngồi sửa xe đạp, xe gắn máy. Chú yên tâm từ đây con chú không còn bị đưa ra chiến trường nữa. Cô Chanh thịt bò và cả xóm qua chúc mừng chú thím Diệp vì hai thằng con trở về nguyên vẹn. Dù mọi người đang hoang mang lo sợ không biết chánh phủ Việt cộng sẽ đánh tư sản dân miền Nam ra sao, nhưng tạm thời lúc này đang đoàn tụ với nhau thì mừng cái đã. Hơn nữa, trong xóm này đa số là dân nghèo, buôn bán tiểu thương, có ai là thương gia cỡ lớn đâu, họ tự trấn an mình như thế. Cô Chanh góa chồng từ năm 26 tuổi. Chồng cô là lính VNCH đã tử trận khi đứa con gái duy nhất chưa đấy 1 tuổi. Nhờ có nghề bán thịt bò nên cô lo được cho con và mẹ đẻ. Mỗi ngày mẹ cô ở nhà trông cháu để cô yên tâm đi buôn bán. Vì thế, cô rất sợ cảnh chờ con chờ chồng đang xông pha diệt giặc cộng sản nơi trận mạc. Cô luôn oán trách Hồ Chí Minh và cộng sản miền Bắc luôn nuôi tham vọng chiếm đoạt miền Nam khiến chồng cô và thanh niên miền Nam phải đi lính chống giặc cộng sản, phải đối diện với cái chết kề cận mỗi ngày. Chẳng thể nào ở nhà lo xây dựng gia đình cho đàn bà và trẻ con bớt khổ. Giờ thì, cộng sản miền Bắc đã thắng miền Nam Tự Do. Ác thắng thiện chẳng khác gì ác Quỷ lên ngôi cai trị dân lành. Nhưng lúc đó, dân miền Nam như cô Chanh tự an ủi “thôi thì hết chiến tranh rồi, mọi người ai về nhà nấy lo xây dựng lại đời mình, sống qua ngày cho xong phận dân quèn. Đến năm 1979, thằng Tài con chú Diệp bị chánh phủ Việt cộng bắt nhập ngũ để đưa qua chiến trường Kampuchia, lần này thằng Phát thoát được vì mỗi nhà phải nộp 1 thằng con trai, nếu không thì cả nhà phải đi “Kinh Tế Mới”. Thằng Phát là con trưởng nam nên chú Diệp bảo thằng Tài đi thế anh. Cả xóm lại xôn xao tiễn chân thằng Tài. Thím Lài lại khóc sụt sùi tiễn con lên đường làm nghĩa vụ quốc tế. Cô Chanh và cả chục người trong xóm đi theo mẹ con thằng Tài ra đầu đường chờ xe. Khi mẹ con nó lên xe xong, nó còn ngoảnh lại đưa tay chào mọi người. Cả đám người đứng nhìn cũng đưa tay lên vẫy, nước mắt rưng rưng. Tấm ảnh chồng cô để trên bàn thờ mặc áo lính Bộ Binh, đeo lon Trung Sỹ từ khi chồng chết. Nay bị thằng công an phường bảo phải thay hình khác, hình nào không có mặc áo lính “Ngụy”. Cô xót xa cất vào trong phòng ngủ. Chỉ còn 1 bức ảnh chụp hình thẻ học sinh của chồng năm 17 tuổi, cô đem đi phóng to rồi để lên bàn thờ. Ngày qua ngày, việc buôn bán của cô Chanh và mọi người tiểu thương miền Nam càng lúc càng khó khăn, bị ngăn chặn, bắt bớ đủ điều. Ngày xưa dưới chế độ Cộng Hòa, được buôn bán tự do, chánh thức; ngày nay dưới chế độ cộng sản, phải buôn chui, trốn tránh như tội đồ buôn hàng quốc cấm. Cố gắng cầm cự vài năm, cô sờn lòng nản chí và mệt mỏi và chẳng thể nào than với mẹ hoặc con. Trong chợ nơi cô bán hàng, có vài người rủ nhau vượt biên. Có người cho cô hay vì biết cô rất muốn ra đi. Cô còn giữ vài cây vàng lo cho hai mẹ con ra đi đường biển. Cô giao nhà lại cho mẹ, dặn dò khi nào con gửi điện tín về thì mẹ báo cho thằng Chinh lên đón mẹ về ở với vợ chồng nó, còn căn nhà này con ủy quyền cho mẹ bán đi. Bà mẹ già chỉ biết khóc thầm tiễn con kín đáo vào một buổi sáng chưa tỏ mặt người. Nhưng bà mẹ già chờ mãi cả hơn 2 tuần mà chẳng thấy điện tín của cô Chanh đánh về. Bà chờ thêm cả tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Sau đó, có người đi chung chuyến tàu của cô Chanh biên thư từ trại tị nạn Thái Lan về cho gia đình kể rằng chiếc tàu của họ bị hải tặc Thái Lan cướp, rồi đâm cho lủng thuyền khiến thuyền bị chìm, ai nấy rơi xuống biển. Hai mẹ con cô Chanh không biết bơi, nhưng con gái cô bám được một miếng ván nhỏ, nó thấy mẹ nó bị sóng kéo xa khỏi nó, thì nó bỏ ván bám theo mẹ. Cô Chanh hét lên: “Buông mẹ ra!” Nhưng nó gào lên: “Không! Con muốn chết với mẹ”. Thế là hai mẹ con chìm xuống nhanh chóng. Hầu hết mọi người trong chiếc thuyền đó đều chết, chỉ có vài người sống sót nhờ bám vào cái ván dài hơn, trôi dạt vài ngày thì được tàu nước khác đi ngang cứu. Còn thằng Tài con chú Diệp và thím Lài đi mãi chẳng nghe tin tức gì. Vài năm sau, khi cuộc chiến ở Kampuchia kết thúc, nó cũng không trở về. Nó vĩnh viễn nằm xuống ở xứ người. Chú Diệp bán nhà được một món tiền, dọn xuống Gò Vấp mua căn nhà bằng gạch ở mặt tiền mở tiệm sửa xe gắn máy. Mì Ngã đã theo chồng về Đài Loan từ giữa tháng 4 năm 1975. Chẳng bao giờ liên lạc với chú Diệp. Có lẽ mẹ con Mì Ngã xem như chú Diệp thành người Việt Nam rồi, chẳng phải bà con gì với họ nữa. Xóm nhỏ vào tháng 4 năm 1975 có vài người di tản theo sở, theo đường hàng không hay đường hàng hải. Có người vượt biên bằng đường biển thoát, có người không thoát. Có người bán nhà đi về quê sinh sống vì ở Sài Gòn không kiếm ra việc sẽ bị lùa đi kinh tế mới, có người bán nhà vì cần tiền, dọn đi xa hơn. Cậu Bẩy đi lính Nhẩy Dù trước 1975 thì đã tử trận ngày 30 tháng 4 năm 1975 rồi. Người xóm nhỏ ngày xưa chỉ còn lại 1/4, đa số là người mới. Người đi xa lâu năm, khi trở về xóm nhỏ, gặp được một vài người cũ mừng như gặp lại người thân, như thấy lại mình thời xưa lúc thành phồ Sài Gòn chưa bị đổi tên. TT-Thái An 2/10/2023 |