HỒI KÝ: NGƯỜI ANH MẤT TÍCH – NĂNG KHIẾU 

HỒI KÝ: NGƯỜI ANH MẤT TÍCH 
Tác giả NĂNG KHIẾU 
Nhân ngày kỷ niệm Quân Lực VNCH 19 tháng 6 mỗi năm. Tôi xin đóng góp một câu chuyện ngắn kể về người anh đã mất tích tại căn cứ Dakto-Kontum, nhằm vinh danh những người lính đã hy sinh, để cha mẹ, vợ con, đồng bào mình được an lành nơi hậu phương.
                       Anh lính trẻ đã một thời ngang dọc
                       Nơi tuyến đầu ôm súng giữ biên cương
                      Nhưng anh đã ra đi không trở lại
                      Nhờ vần thơ tôi viết nhớ thương anh
                                           *                  
Có lẽ suốt cả đời, không bao giờ tôi quên được lá thơ trả lại, vì không còn người nhận. Đó là một chiếc phong bì vuông màu trắng, chung quanh nổi bật bởi những viền chéo màu xanh đỏ. Giữa phong bì là nét chữ nắn nót của tôi:  Kính Gửi:   T/S Nguyễn Văn Hạ.
                                                                        K.B.C………
Góc trái phong bì là tên tôi gửi đi từ Sàigòn, góc phải là con dấu K.B.C. Quân Bưu hình tròn, cạnh là hàng chữ đậm nét “Đương sự đã mất tích” linh tính như báo điềm chẳng lành, tôi lo sợ khi cầm lá thơ trong tay. Nhưng còn chút hy vọng, và tự nhủ anh mình chưa chết, chỉ là mất tích. Đâu có ngờ đó là lá thơ cuối cùng, nó đã ám ảnh tôi mãi.
Khi viết lại những dòng chữ này, lòng tôi thấy quặn đau, tôi đã ngồi cắn bút cả tiếng đồng hồ để hồi tưởng lại hơn 50 năm về trước. Nhớ tới một thời đất nước tang thương đầy chết chóc, do bọn Cộng sản đã lùa hàng vạn thanh niên từ Miền Bắc ra chiến trường, để xâm nhập đánh chiếm Miền Nam, đã gây cho biết bao oan hồn “Sinh Bắc tử Nam”. Riêng tại Miền Nam, có lẽ trong chúng ta ai cũng có người thân, ruột thịt, họ hàng hay bạn bè đã hy sinh trong cuộc chiến. Xin mọi người hãy dành một phút, để tưởng nhớ đến hàng ngàn anh linh, sau những lần chiến đấu gian khổ, đã anh dũng hy sinh, để ngăn chặn làn sóng đỏ, bảo vệ quê hương, vì lý tưởng tự do cho Miền Nam.
Anh Hạ là con trai duy nhất của bác Lập, bác là chị ruột của mẹ tôi. Anh sanh năm Ất Dậu 1945, giữa tháng ba đói trong biến cố lịch sử, thực dân Pháp mở đường để quân phiệt Nhật, vào Đông Dương gây nên thảm trạng hơn hai triệu người Việt Nam chết vì đói, từ miến Bắc đến Quảng Trị. Bác trai tôi bị bịnh chết lúc anh mới biết bò, và bác gái ở vậy suốt đời để nuôi con. Năm 1954, bác di cư vào Nam, sống tại trại định cư Long Định Mỹ Tho. Trái với bác, mẹ tôi sanh được gần một chục đứa con, nên lúc nào cũng có vấn đề. Còn nhớ lúc tôi lên 8 tuổi, ba gởi tôi học nội trú trong nhà dòng Tân Mai, Biên Hòa, trong lúc chơi rượt bắt, tôi bị vấp té gẫy chân, ba tôi phải tìm bác lên săn sóc. Mỗi lần mẹ tôi nằm cữ, hoặc đau ốm, bác thường đến để giúp đỡ. Vào năm 1965, khi gia đình tôi ở Pleiku, bác và anh dọn đến sống chung, nên chúng tôi coi anh Hạ như anh ruột.
Anh Hạ tánh tình hiền lành thật thà. Anh không được đẹp trai, nước da ngăm đen, dáng người cao lớn, nhưng bị chiếc lưng hơi khòm, nên mỗi bước đi đầu hơi chúi về phía trước, trông rất vất vả, mẹ tôi thường bảo: “Cái thằng, ăn chả ra răng, nói chẳng ra nhời”.
Nên đi hỏi vợ chỗ nào cũng bị chê, sau bác phải nhờ mai mối, về mãi trại định cư Hố Nai là nơi trai thiếu gái thừa anh mới lấy được vợ. Lúc anh mất tích để lại một vợ hai con, đứa con trai đầu lòng 3 tuổi và đứa con gái chưa đầy 1 tuổi.
Vào thời điểm đó, nếu là con một trong gia đình, có thể làm đơn xin miễn dịch, nhưng không hiểu sao, anh Hạ lại tình nguyện đi nhập ngũ, nếu nói anh có lòng yêu nước, hay ý thức trách nhiệm của người trai thời chiến, thì hơi thi vị hóa chăng!…
Anh Hạ nhập ngũ năm 1966 phục vụ tại Trung Đoàn 3 Thiết Giáp Pleiku, đến năm 1969 anh được thuyên chuyển về Dakto-Kontum. Sau đó anh mất tích vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Lúc đó gia đình tôi vào Saigon rồi, tôi nghe bác kể lại không nhớ chính xác lắm, theo như người bạn của anh đến cho biết, đơn vị đóng tại Dakto là căn cứ nằm trên tuyến đầu của thành phố, về hướng Tây Bắc, cách thị xã Kontum khoảng 13 Km theo tỉnh lộ 14.
Vào một đêm mưa tầm tã, Cộng quân Bắc Việt, đã mở trận tiền pháo hậu xung tấn công ồ ạt vào đội hình của đơn vị anh, có thể chúng đã cho đặc công thám thính, vẽ sơ đồ nắm rõ tình hình quân trú phòng từ trước, lợi dụng lúc đêm tối và mưa gió, chúng pháo đủ loại đạn, rồi bò sát hàng rào phòng thủ và xung phong, nhưng chúng đã gặp phải hỏa lực của những chiếc M113 chống trả mãnh liệt. Sở trường của bọn Việt Cộng là lối đánh thí mạng, chúng lì lợm chết lớp này, lại bò lên lớp khác, chúng coi mạng người rẻ như bèo, có lúc tràn vào trong đánh sáp lá cà, sau những giờ phút máu lửa kinh hồn, các anh đã đẩy lui cuộc tấn công của địch, và chờ quân tiếp viện đến. Lực lượng tiếp viện của SĐ 22 Bộ Binh được yểm trợ bằng phi pháo, cuối cùng cũng đạt được thắng lợi, đẩy lui quân Bắc cộng. Sau đó chỉ còn nghe tiếng đại pháo tầm xa, bắn theo con đường rút quân của địch. Trong đợt rút lui ấy chúng đã bắt theo một ít nguời, trong đó có anh Hạ của tôi. Đó chỉ là những gì bác và chị tôi nghe được, nếu có ai biết được đích xác anh Hạ tôi sống chết như thế nào, thì xin cho gia đình biết, cám ơn rất nhiều.
Tôi còn nhớ vào khoảng 1965, khi còn ở Pleiku, tôi đã có dịp lên Kontum để thăm cậu em đang học trong Chủng Viện Thừa Sai của Pháp, nên cũng biết sơ về Thị xã Kontum. Từ Pleiku đi Kontum chỉ có một con đường độc đạo là Quốc lộ 14. Hai Thị xã cách nhau khoảng 50 Km, mà thời tiết và địa thế khác hẳn nhau. Pleiku thời tiết khắc nghiệt, là phố núi cao, những con dốc dựng đứng, còn đất thì đỏ bụi bay ngập trời. Trái lại Kontum đất trắng, không bụi bặm, nằm giữa một thung lũng êm đềm và thơ mộng, được bao bọc bởi dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Từ Pleiku xuống Kontum theo đường liên tỉnh. Để vào thị xã Kontum phải đi qua chiếc cầu bắc trên dòng sông Dakbla xinh đẹp, nếu đến vào mùa hè ta sẽ gặp những hàng hoa phượng đỏ rực dọc theo bờ sông soi mình trên sóng nước, đẹp như một bức tranh thủy mạc Đi một đoạn nữa thì quẹo trái vào làng Phương Hòa, vì tôi có người bạn quê ở đây nên có ghé đôi lần, nhà nào cũng có vườn cây ăn trái như mãng cầu, cam quýt, nhãn ổi, rất ngon và sai trái, nên cuộc sống người dân rất trù phú phần nhiều là nhà ngói cây mít.
Đất lành chim đậu, nên thành phố Kontum có nhiều nhà dòng và đặc biệt là có một Chủng Viện Thừa Sai khá lớn do Đức Cha Seitz làm giám đốc và rất nhiều Linh mục người Pháp tình nguyện đến Việt Nam, để dạy dỗ các chủng sinh học theo chương trình Pháp tại đây, khi học hết bậc trung học, lên tú tài, thì được chuyển đến Chủng Viện trên Dalat, để học ở trường Lasan d’Adran và tiếp tục học lên thần học. Nên các cha đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Đặc biệt là các cha nói tiếng Thượng rất giỏi và các linh mục tương lai sẽ vào các làng Thượng để truyền giáo. Tôi được biết Đức Cha Seitz vào một dịp ngài từ Kontum vào Saigon 1971, lúc đó cậu em của tôi cũng từ Chủng viện về nghỉ hè tại nhà. Vào một sáng  Chúa nhật chúng tôi đi lễ tại nhà thờ Phú Trung gần Ngã Tư Bảy Hiền, thật bất ngờ thánh lễ hôm ấy do Đức Cha Seitz làm chủ tế, để làm phép hôn phối cho người con nuôi của Đức Cha, là một người thương binh, bị liệt hai chân, phải ngồi trên xe lăn. Sau lễ cưới cậu em tôi đón Đức Cha ngay cổng nhà thờ và mời Đức Cha ghé nhà tôi uống ly nước, vì nhà tôi đối diện nhà thờ nên tiện đường Đức Cha nhận lời ngay. Lúc đó ba tôi mới mất, còn mẹ thì đi buôn bán không có nhà.
Đức Cha bảo chị em tôi xếp hàng một, lớn đứng trước bé đứng sau, và chúng tôi tự động vào vị trí, tôi lớn nhất lúc đó 20 tuổi, đứng đầu hàng, còn cậu em út mới 2 tuổi đứng cuối cùng, tất cả là 9 đứa, 6 gái, 3 trai, thành một hàng dài ngay ngắn. Đức Cha từ tốn bảo:
– Các con hãy quỳ xuống để Đức Cha ban phép lành, xin Chúa phù hộ cho các con.
 Chúng tôi cùng cúi đầu nhận phép lành, từ tay Đức Cha đầy lòng nhân ái, đó là điều may mắn cho chúng tôi. Cho tới bây giờ tôi mới cảm nhận hết những phép lạ Chúa đã ban đến cho chúng tôi. Vào đầu thập niên 1980 sau bao lần vượt biên gian nan khổ ải, hai cậu em tôi đã đến được bến bờ tự do, và bảo lãnh cho mẹ tôi, rồi chị em tôi lần lượt đoàn tụ, xum họp đầy đủ bên mẹ già, tại vùng đất hứa này, đều là quyền năng của Thiên Chúa.
Vậy mà sau khi bọn Việt Cộng chiếm được Kontum rồi, chúng lấy cớ tiếp thu Chủng viện để quản lý, nhưng thực chất là cướp bóc vơ vét của cải chia nhau, chúng còn ngang nhiên đuổi Đức Cha Seitz và các linh mục người Pháp về nước. Lúc Đức Cha ra phi trường, ngài đi bộ bằng đôi chân trần. Hai bên đường dân chúng đứng rất đông để tiễn biệt ngài. Họ quay mặt dấu vội những giọt nước mắt thương tiếc một người cha nhân hậu, luôn giúp đỡ tha nhân.
Lại nói về Thị xã Kontum, nếu mới nghe tên người ta tưởng là nơi xa xôi mọi rợ, có những cô gái ngực trần, đeo gùi trên lưng, hay những người đàn ông đóng khố, tay cầm xà-gạc đi nhong nhỏng ngoài phố. Chung quanh thì toàn rừng núi âm u beo cọp lảng vảng. Nhưng không phải thế, ai đã có dịp ghé qua, hay từng ở lại miền cao nguyên cát trắng thân thương này, sẽ nhớ mãi trong tâm hồn. Thật vậy, đi sâu vào dọc theo bên đường, có nhiều đài xây nho nhỏ, xinh xinh, để đặt tượng Đức Mẹ, hoặc các Thánh, khiến ta có cảm tưởng nơi đây rất yên bình như lạc vào vùng Thánh Địa. Nhưng rồi như tất cả mọi nơi, Miền Nam đang sống trong tự do no ấm, Kontum lại nằm ngay tầm nhắm của tụi Bắc Cộng vừa chui hầm rúc hố ra, từ trong đường mòn Hồ Chí Minh khuất sau những rặng núi, chúng “hồ hởi” đặt súng cối trên đỉnh núi Trường Sơn, pháo bừa vào nhà dân, có khi vào trường học, nhà thờ, rồi “phấn khởi” gọi đó là chiến thắng..
Gia đình anh Hạ tôi đang sống hạnh phúc, ở môt nơi chốn đầm ấm như vậy, anh thì ngày ngày lo canh giữ biên thùy, bác thì ở nhà lo chăm sóc các cháu, chị dâu tôi có nghề làm gía sống, mỗi sáng mang ra chợ bán, để kiếm thêm tiền lo cho gia đình. Nhưng vào một đêm định mệnh, bọn Bắc Cộng đã bắt anh đi, mẹ già anh khóc thương, vợ con anh hụt hẫng. Rồi những tháng ngày trông tin anh biền biệt, nỗi tuyệt vọng lớn hơn niềm hy vọng, nên mẹ con bồng bế nhau về xứ đạo Hố Nai để sinh sống.
Vào những ngày sau 30/4/75, cuộc sống càng khó khăn hơn, phải sống dưới chính sách lương tâm không bằng lương thực, nên đã sinh sản ra những con người không có trái tim, chỉ biết trả thù bằng lý lịch, ngay cả với những đứa trẻ còn cắp sách đến trường, họ không biết thông cảm nỗi đau của những gia đình mới mất người thân sau cuộc chiến do họ gây ra. Bác tôi thương con dâu như con gái chứ không như người đời thường nói “Mẹ chồng nàng dâu”. Bác có nét mặt hiền hậu, nhưng khắc khổ. Như đã nói ở trên, chồng chết từ lúc còn trẻ, bác đã thủ tiết thờ chồng nuôi con, bao nhiêu tình yêu thương bác dồn hết cho anh Hạ. Từ khi nghe tin anh mất tích, những chuỗi ngày cuối đời lại mỏi mòn trông chờ đứa con trai yêu dấu trở về trong vô vọng. Chẳng thà được tin anh chết thì cái đau nó chỉ đến với bác trong một thời gian, chứ nó không kéo dài dai dẳng như cái tin mất tích oái oăm, gặm nhấm lòng bác từng ngày.
Sau này bác tôi đau ốm luôn, mà chị dâu tôi quá nghèo, chị buôn thúng bán bưng “hai tay vày lỗ miệng” nuôi hai đứa con cũng đã chật vật, còn lấy gì mà lo thuốc men cho bác. Mặc dù mẹ tôi cũng giúp đỡ, nhưng “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Nên năm 1980 chị dâu đành để mẹ tôi đón bác về Saigon luôn. Đến năm 1992 mẹ tôi đi bảo lãnh qua Mỹ, người em gái tôi thay mẹ săn sóc bác. Thật tội nghiệp, bác cứ trốn ra đường đi tìm con, đội gói quần áo lên đầu, vừa đi vừa gọi: “Hạ ơi! Con ở đâu, sao không về với mẹ”.
                              Quanh năm hoa dại nở
                               Lang thang mẹ tìm con
                               Khóc đến loà đôi mắt
                               Khàn giọng gọi tên con
                               Đôi mắt loà đẫm lệ
                               Mò mẫm trong đêm trường
                               Chờ con đà mòn mỏi
                               Bóng con vẫn biệt tăm.
Rồi bác gặp ai cũng hỏi thăm, các ông các bà ơi có biết con tôi bây giờ ở đâu không? Rồi đứng kể lể, có người thương hại bảo: “Bà ơi tới bây giờ mấy chục năm rồi, mà con bà chưa về, thì nó chết rồi”, nhưng bác không tin. Trông bác như một bà điên, cứ đi lang thang suốt ngày. Có lúc bác đi lạc, em gái tôi phải đăng báo nhắn tin rồi chia nhau đi tìm cả mấy ngày. Sau nó phải làm hàng rào chung quanh nhà, khóa cổng và canh chừng cẩn thận hơn. Cho đến năm 1999, sau cơn đau nặng nằm liệt giường, bác đã chết trong khắc khoải đau buồn ở tuổi 80.
Trước khi bác chết, hai đứa cháu nội bác bỏ công ăn việc làm xuống Saigon để chầu chực cả tuần, nhưng chưa đến giờ tử thần gọi. Vì công việc không bỏ lâu được chúng phải trở về nhà, thì đêm sau bác trút linh hồn. Em gái tôi nhắn tin nhưng chúng không xuống  kịp, chờ lâu quá em tôi sợ bốc mùi nên nhờ người đến tắm rửa tẩm liệm cho bác, nhưng họ thấy điều lạ không dám liệm, vì tắt thở rồi mà người chưa lạnh hẳn, hai con mắt vuốt hoài không nhắm kín. Họ bảo nhau bà này chắc còn chờ ai mà không đi đứt được. Sau em gái tôi, phải nuốt giận gọi điện thoại năn nỉ hai đứa cháu của bác:
– Các cháu xuống ngay đi cô hứa trả tiền xe, và chịu hết mọi chi phí cho đám tang của bà, không có tiền thì thôi, cứ xuống gặp bà một lần cuối để bà nội ra đi thanh thản. Đúng là “Cái khó nó bó cái khôn” thật tội nghiệp.
Mãi đến ba giờ chiều hôm sau, hai đứa cháu nội vừa bước xuống xe trước cửa, thì ở trong nhà hai hàng nước mắt bác chảy ra rồi từ từ nhắm chặt lại, và người mới lạnh toát đi. Một kiếp người khổ cho đến chết.
Anh Hạ cũng như bao tử sĩ, đã ra đi biền biệt, đền xong nợ nước. Người đời có câu “Sinh ký tử qui” xin cảm tạ các anh, những người lính âm thầm, đã đem mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc. Trong chiến tranh chết chóc không tránh khỏi, nhưng người còn ở lại phải chịu đựng sự mất mát, đau khổ với những dòng nước mắt tiếc thương suốt đời.
 
NĂNG KHIẾU