KỸ NỮ XƯA VÀ NAY-TT-Thái An

KỸ NỮ XƯA VÀ NAY
TT-Thái An
Kỹ nữ là từ Hán Việt.  Xuất phát bên Trung Hoa từ thời chiến quốc.  Ái thiếp của Lã Bất Vi là một kỹ nữ, sau đó được gả cho vua Tần sinh ra Tần Thủy Hoàng.
          Kỹ nữ sống trong các Thanh Lâu, tiến Việt gọi là lầu xanh.  Có “lầu” thì căn nhà này phải lớn hơn những cửa hàng nhỏ buôn bán ngoài phố xá.
          Phần lớn, các cô kỹ nữ là con nhà nghèo, bị cha mẹ bán cho thanh lâu từ lúc còn bé, khoảng tám, chín hay mười tuổi.  Chủ thấy đứa nào mặt mày trông xinh đẹp thì mua vào, dạy cho cầm, kỳ, thi, họa.  Đến khi vừa 15 hay 16 là có thể ra tiếp khách.  Tùy theo tài của từng cô, mà có khách một điệu cho riêng mình.  Mỗi lần khách trở lại, là đòi cho bằng được cô ấy ra tiếp. Các cô kỹ nữ được xem như tài sản của chủ nhân nên họ làm việc không có tiền công, có thể xem như một hình thức nô lệ.  Nếu gặp khách hào hoa thì được thưởng cho ít tiền.
Thời đó có câu “Bán tài không bán sắc” để dành cho các kỹ nữ không bán thân.  Như thế số kỹ nữ bán tài và bán cả sắc có nhiều hơn số chỉ bán tài. 
          Khách đến thanh lâu đa phần là những người đàn ông có tiền hoặc có quyền, và đã có một hay vài bà vợ. Vì thời xưa, con trai chưa cưới vợ hãy còn ở nhà cha mẹ, có làm phụ cha mẹ cũng không được giữ tiền riêng để có thể đến thanh lâu giải trí.  Hơn nữa, phong tục thời xưa gắt gao với những người còn trẻ mà đã ‘ham chơi”.
          Nghề kỹ nữ có thể chỉ kéo dài nhiều lắm là bảy, tám năm, vì thanh lâu thường xuyên mua vào những bé gái để tập luyện cho chúng hầu thay thế cho những nàng kỹ nữ sắp “về hưu”.
          Vì thế, số phận các nàng kỹ nữ, nếu may mắn có được một ông khách bỏ tiền ra chuộc về làm vợ thứ hay tì thiếp thì sau này có cơ  hội sinh con đẻ cái.  Tuổi già có chỗ nương thân, được sống nhờ con.  
Còn những cô không có ai chuộc về làm vợ thứ hay tì thiếp, có lẽ khi bị sa thải khỏi kỹ viện, họ phải kiếm cái miếu, cái chùa nào đó đi tu, sống nhờ bá tánh.  Nói mỹ tự, nếu vào miếu ở thì gọi là sống nhờ lộc thánh; nếu vào chùa ở thì gọi là nương nhờ cửa Phật.  
Bên Trung Hoa, miếu nhiều hơn chùa và miếu lớn bằng chùa hay lớn hơn cả chùa.  Miếu là nơi thờ Quan Công, Thổ Địa hay các thần Thiện, thần Ác, thần Hỏa, thần Hà Bá, hoặc các thần dân gian của người Trung Hoa.  Trong khi ở Việt Nam, miếu chỉ là những cái am nhỏ dọc đường, dọc sông nơi thờ những người chết dọc đường, hoặc chết đuối ven sông.  Chùa là nơi thờ Phật mà thôi.  Nhưng chùa của người Trung Hoa thờ Phật Thích Ca và thêm nhiều Phật khác.
          Từ khi âm nhạc của Âu Châu du nhập vào Trung Hoa, các phòng trà, vũ trường mọc lên ở các thành phố lơn.  Vì thế xuất hiện bốn nghề mới là nhạc sỹ tân nhạc, nhạc công, ca sỹ và vũ nữ.  Các ông có tiền và muốn học theo cách ăn chơi của Tây phương thì bỏ lối ăn mặc cổ, khoác lên người bộ Âu phục, thắt cà vạt, bước vào các vũ trường nghe nhạc và khiêu vũ.  Vì thế âm nhạc cổ truyền, ngâm thơ, hát hò theo lối cổ do các kỹ nữ cống hiến từ từ mất người thưởng thức và thanh lâu bị đi vào quá khứ.
          Nhưng nghề kỹ nữ vẫn tồn tại trên nước Trung Hoa và ngay cả ở Đài Loan cho đến ngày nay.  Vì họ vẫn dùng từ “kỹ nữ” để gọi những cô gái điếm, chỉ làm điếm bán thân mà thôi.  Vì thế kỹ nữ ngày nay là gái điếm chuyên bán thân.
          Ở Đài Loan, đoàn quân của Trung Hoa Dân Quốc theo Tưởng Giới Thạch đến Đài Loan năm 1949 đa phần là lính tráng chưa vợ. Nhiều người trong số này phải ở độc thân suốt đời vì không kiếm ra đàn bà để lấy.  Vì thế chánh phủ giải quyết vấn đề bằng cách cấp giấp phép  cho mở kỹ Viện (Tiếng Việt gọi thẳng là Động Điếm).  Kỹ nữ trong các kỹ viện tân thời, chỉ có phục vụ sinh lý cho khách, không đàn ca hát xướng gì ở đây.
Những cô kỹ nữ bán dâm trong kỹ viện phải đăng ký để có giấy phép hành nghề.  Các cô này phải đi khám sức khỏe mỗi tháng để chánh phủ dễ kiểm soát vấn đề an toàn cho khách chơi.  Những kỹ viện này trang trí bằng cách gắn đèn màu chớp nhá chung quanh mặt tiền y như ở Mỹ gắn đèn màu trước nhà vào mùa Giáng Sinh.  Nhưng đèn mừng Giáng Sinh ở Mỹ chỉ thắp vào buổi tối.  Còn đèn ở kỹ viện thì bật suốt 24/7.
          Đến năm 1997, chánh phủ Đài Loan chánh thức đóng cửa các kỹ viện. Không cấp giấy phép cho hoạt động nữa.  Có lẽ vì con số những người lính độc thân còn sót lại từ thời 1949 đã chết gần hết, hoặc nếu còn sống thì cũng đã quá già, đang nằm trong các viện dưỡng lão chờ ngày chầu tổ nên không cần duy trì kỹ viện nữa.  Nếu có ông nào còn nhu cầu, thì tự kiếm các kỹ nữ hành nghề tự do.
          Tuy không còn kỹ viện, nhưng các bar, quán nhậu, phòng karaoke, hộp đêm, vũ trường còn đầy dẫy, ngày càng nhiều hơn, vì thế nghề kỹ nữ vẫn tồn tại và rầm rộ trên đất Tàu và Đài Loan hơn thời cổ xưa rất nhiều.
          Số phận các cô kỹ nữ về hưu tại Đài Loan không đến nỗi thảm sầu như bên Trung Hoa thời cổ.  Vì các cô này tự nguyện xin làm việc cho các kỹ viện, không phải bị cha mẹ bán vào.  Các cô này ăn chia với chủ động.  Nếu gặp khách sộp thì cho thêm tiền thưởng.  Khi giải nghệ, các cô đã có tiền để dành đủ để mua một căn chung cư và có vốn làm ăn, mở cửa hàng cửa tiệm.  Như thế, các cô có của “hồi môn” nên lấy chồng  dễ dàng.  Làm vợ chánh thức chứ không làm vợ bé hay thê thiếp đâu nhé.  Các cô gái điếm giải nghệ vẫn hiên ngang mặc áo cưới trắng tinh, mở tiệc cưới linh đình đâu thua gì đám cưới của các cô con nhà lành.  Ăn mừng lớn cũng phải!
          Tại Việt Nam, từ “kỹ nữ” chỉ có trong thơ văn như: “Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt, cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi” (Lời Kỹ Nữ, thơ Xuân Diệu).  Kỹ nữ trong bài thơ này rõ là một cô “gái điếm” thời xưa.
          Thời cổ xưa ở Việt Nam có nghề “Cô Đầu”, hay còn gọi là Ả Đào.  Các cô đầu hát ả đào hay ca trù cho khách thưởng thức.  Các nhà hát ả đào không to lớn như các thanh lâu bên Trung Hoa.  Có lẽ chủ nhân không có vốn để xây cất nhà gạch cao to.  Vì dân chúng không giầu có, không có nhiều thương gia hay phú ông trong xã hội thời đó. Nên các nhà hát ả đào không giầu.  Tuy nhiên, các cô đầu thuần túy chỉ hát giúp vui cho khách là chính.  Họ không phải là gái mãi dâm.
          Nhưng cũng có những cô đầu trá hình, chỉ hầu rượu và có thể đi khách nữa nên gọi là cô đầu rượu.
Các cô đầu thuần túy ca hát cũng xuất thân con nhà nghèo.  Có lẽ trên 14 hay 15 cha mẹ mới bán vào các nhà ả đào, vì không cần nhiều thời gian để học đủ các môn cầm kỳ thi họa, họ chỉ học hát mà thôi. Số phận các cô này cũng chỉ cầu mong có được một ông phú hộ hay một ông tri phủ, tri huyện hay một ông Thông, ông Phán thời Pháp thuộc rước về làm tì thiếp.  Để khi về già có thể sống nhờ con cái.
Cũng như Trung Hoa, khi âm nhạc Tây phương xuất hiện tại Việt Nam.  Các nhạc sỹ bắt đầu sáng tác theo Tân nhạc.  Vũ trường và đài phát thanh phát đi những bản nhạc tân thời.  Số người biết thưởng thức hát ả đào không còn, thì các địa điểm hát ả đào cũng đi vào quên lãng.
Cái nghề kỹ nữ hiện đại của Trung Hoa thì Việt Nam gọi là làm đĩ, làm điếm, tiếng mới gọi là “làm gái”.  Công việc của họ giống như nhau là bán thân.
Thời nay ở Việt Nam, nghề làm gái khá thịnh hành từ Nam chí Bắc.  Vì cha mẹ họ không muốn an phận, để con làm thuê, cấy cày vất vả mà không được nhiều tiền.  Đi làm gái kiếm được nhiều hơn, may ra còn có tiền cho cha mẹ xây nhà nhiều tầng.  Vì nhìn quanh, thấy cán bộ lớn nhỏ, công an và công nhân viên bỗng dưng giầu quá, mà mình thì nghèo rớt mồng tơi.  Không chịu an phận nữa thì bất chấp để “vươn lên”.  Tuy nhiên cũng có nhiều cô vướng vào con đường nghiện ngập nên tự động bước vào con đường bán thân để đổi lấy ma túy, độc dược.
Việt Nam ngày nay cũng đã có kỹ nam, điếm đực, để phục vụ các bà trong nước cũng như các bà Việt kiều về nước ăn chơi.
Sau 1975, văn hóa truyền thống ngàn năm văn vật của Việt Nam đã bị bào mòn, bị xem là lạc hậu.  Nhưng văn hóa cộng sản cổ súy “Nam Nữ bình quyền” rởm thì tự do phát triển.  Nghĩa là đàn ông chơi kiểu gì, đàn bà cũng chơi kiểu nấy.  Bởi thế, có khối các cô các bà nhậu nhẹt, hút sách và chơi điếm chẳng thua các ông.  Miễn làm ra tiền muốn mua vui kiểu gì tùy ý.  Chủ nghĩa “duy vật” mà!
Ở Việt Nam ngày nay, ngoài phong trào xuất cảng cô dâu qua Đài Loan và Nam Hàn ra, còn một đường dây xuất cảng gái điếm sang Trung cộng cũng rất rầm rộ. Nó không phải là chánh thức, nhưng có thể xem là “bán chánh thức”.  Đám người tổ chức đường dây này gồm cả hai phía Việt và Tàu. 
Vì hơn nửa thế kỷ qua, Trung cộng ra luật một gia đình một đứa con mà thôi. Hậu quả là những đứa gái sơ sinh bị cha mẹ chúng cho “đi chầu tổ” tức thì để cha mẹ chúng có thể sinh đứa khác họa may kiếm được con trai để nối dòng cho cha nó.  Vì thế, khi đám con trai này lớn lên, nhiều đứa kiếm vợ không ra. Vì nước Tàu lâm vào tình trạng trai thừa gái thiếu.
Bởi Trung cộng lâm cảnh trai thừa gái thiếu nên con gái Việt Nam và các nước chung quanh nước Tàu bị bắt cóc bán qua Tàu để làm vợ cho một thằng ế vợ. Nghe nói giá bán một cô năm 1993 khoảng $1,000 tiền Đô La Mỹ.  Nhưng bắt cóc bao nhiêu cũng không đủ để bán. 
Cho nên động điếm bán chánh thức mọc lên ở Trung cộng nhiều vô số.  Gái điếm đa phần là các cô từ Việt Nam và các nước lân cận đưa qua.  Nghe nói các cô điếm này có thể kiếm được trên dưới $300 Nhân Dân Tệ mỗi ngày.  Làm điếm ba năm ở Tàu có thể đem tiền về Việt Nam xây nhà lầu.  Như thế các cô có “của hồi môn” để đi lấy chồng.  Nhưng nếu trong lúc hành nghề, các cô bị xui xẻo mang vào người virus HIV thì xem như có bao nhiêu tiền kiếm được chỉ đủ đem thân về nước để lo việc thuốc thang cầm chừng, sau đó là lo việc ma chay, chôn cất. 
Nếu cô nào tin có luân hồi chuyển kiếp, và tin rằng nhờ người khác cầu siêu, cúng tế cho thì có thể nhanh chóng thoát địa ngục, đi đầu thai kiếp khác, thì phải có tiền để lại, nhờ người nhà kiếm thầy cầu siêu, sao cho “Kiếp sau chớ có làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” (Nguyễn Công Trứ) để khỏi phải đi làm đĩ nữa.
Thái Lan là một nước thứ hai ở Á châu được chính phủ cấp giấp phép mở động điếm công khai.  Không những thế thôi, Thái Lan là một nước đi tiên phuông trong lãnh vực “Kỹ Nam”, nói nôm na là “Đĩ Đực”. 
Ở Thái, có những hộp đêm, tụ điểm vũ sexy do những người thanh niên, trai tráng biểu diễn.  Thoạt trông, tưởng họ là con gái chánh hiệu.  Nhưng họ đẹp hơn các cô ở chỗ họ cao hơn các cô Thái Lan có chiều cao trung bình; họ trở thành “người đẹp chân dài”.  Ngoài công viên, trên đường phố, người ta có thể bắt gặp những người đàn ông Tây phương đang kỳ kèo trả giá với những đĩ đực Thái Lan, mặt mày phấn son đậm đà.
Chưa hết, Thái Lan cũng đi tiên phuông trong lãnh vực “Kỹ Nhi Đồng”.   Nói trắng ra là đĩ nhi đồng.
Những đứa bé gái khoảng 7 đến 10 tuổi con nhà nghèo vùng núi đồi Chiang Mai được người dưới Bangkok đến tận làng thu mua với giá khoảng vài trăm đô Mỹ (giá 20 năm trước; năm 2018 có thể lên một ngàn đô la hoặc hơn chút).  Cha mẹ chúng bán con để lấy tiền tiêu xài hay làm gì chẳng biết.
Chúng được đưa vào các động Ấu Dâm để phục vụ khách.  Chỉ khoảng 5 năm sau là chúng hết được ưa chuộng vì đã quá cũ xì.  Có những đám con gái bé nhỏ khác được mua về hàng năm để thay thế chúng. 
Đám con gái làm đĩ nhi đồng này khi đến lúc bị phế thải, được trở về cố quán, về nhà cha mẹ.  Chúng trở về với một thân xác bệnh hoạn, một tâm hồn suy sụp, và một cái túi rỗng không tiền.  Vì suốt những năm làm điếm, tiền thu vào là của chủ. 
Giới giang hồ Việt Nam có câu “Dân chơi xứ Thái”. Ý nói ở Thái Lan, muốn chơi kiểu nào cũng có.  Người nào được gán cho nhãn hiệu “Dân chơi xứ Thái” là thuộc loại cái gì cũng chơi.  “Ngầu” lắm đấy!
Nhưng phải coi chừng, khoảng 20 – 25 năm trước, tỷ lệ người bị bệnh AIDS ở Thái Lan đứng hàng nhất nhì thế giới.  Vào đó chơi coi chừng lãnh đủ.
Kampuchia cũng chẳng thua Thái Lan trong lãnh vực Kỹ nữ và kỹ nhi đồng.  Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, kinh tế chưa phục hồi, dân còn nghèo xơ nghèo xác mà động điếm đã mọc lên như nấm.  Vẫn có vô số đàn ông xếp hàng đi vào các động.
Nghề làm điếm hay làm gái hay làm kỹ nữ đã có từ thời cổ đại xa xưa, có thể nó đã xuất hiện từ khi con người hình thành xã hội có tổ chức. 
Có chánh phủ cho phép công khai, có chánh phủ không cho phép công khai thì lại nhận hối lộ từ các chủ động, chủ đường dây gái gọi, gái điếm để nhắm mắt làm ngơ.   
Các tổ chức bài trừ tệ nạn điếm nữ, điếm nam, điếm nhi đồng trên thế giới chẳng mấy đạt hiệu quả.  Vì nếu không có khách mua dâm thì làm sao có điếm bán dâm? 
Người mua, kẻ bán, chủ chứa, người dẫn mối, người tổ chức đường dây, người cho phép, người nhận hối lộ.  Thảy thảy đều có tội như nhau.
Những người có tiền lý sự rằng họ làm ra tiền thì có quyền dùng đồng tiền cho lạc thú của mình. 
Người nghèo thì lý sự rằng vì họ nghèo nên phải kiếm tiền bất cứ cách nào để sống.
Chỉ trừ khi con người biết sợ tội, sợ sự phán xét cuối cùng của Đấng Phán Xét tức Thượng Đế hay Đức Chúa Trời, thì sẽ không dám phạm tội nữa.
Nhưng rất tiếc, người ta cứ tiếp tục phạm tội vì không tin có sự phán xét sau cùng.
TT-Thái An
3/15/2019