Linh hồn áo trắng ngày xưa-Cung Thị Lan

Linh hồn áo trắng ngày xưa
Cung Thị Lan
Là nữ sinh của trường Nữ Trung Học Nha Trang, tôi luôn mặc những chiếc áo dài trắng đơn sơ mộc mạc của mình trong suốt thời gian học từ lớp Đệ Thất cho đến lớp Đệ Nhất (sau được gọi là lớp 6 và lớp 12). Tuy nhiên, tôi không hề có ý nghĩ xa xôi gì về đặc tính hay ý nghĩa của tà áo dài trắng thường xuyên mặc trong suốt thời gian đến trường. Đối với tôi, áo dài trắng (và quần trắng) là bộ đồng phục bắt buộc theo nội quy nhà trường mà tôi và tất cả nữ sinh trong trường phải tuân theo.Chỉ thế!
 
Sau biến cố tháng tư năm 1975, những chiếc áo dài trắng của chúng tôi hoàn toàn biến mất. Ngôi trường Nữ Trung Học Nha Trang thân ái ngày xưa của chúng tôi không còn những tà áo dài trắng thấp thoáng trong những hàng dương. Thay vào đó là những bộ y phục nhiều màu, đủ kiểu đã vô tình phá vỡ khung cảnh trang nghiêm đẹp đẽ của ngôi trường chúng tôi. Dường như trường tôi bị khoác lên một vỏ bọc mới vừa rối loạn vừa kém mỹ thuật. Điều này đã khơi dậy trong tôi niềm đau xót và thương nhớ thời áo trắng cùng bạn bè trong suốt thời trung học.
 Một chú sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa quen  thân với gia đình tôi, kể rằng ông đã từng được điều trị tại Quân y viện Nguyễn Huệ, nơi tọa lạc trên con đường Đinh Tiên Hoàng, song song với trường Nữ Trung Học Nha Trang. Trong suốt thời gian chữa trị và dưỡng thương  tại Quân y viện Nguyễn Huệ, ông thường nhìn về phía trường Nữ Trung Học Nha Trang để ngắm các cô nữ sinh trong những tà áo dài trắng. Hình ảnh ngoan hiền của những tà áo trắng với tập sách, nón lá, hay xe đạp đã làm dịu nỗi cô đơn và giảm bớt sự đau đớn từ những vết thương mà ông phải chịu đựng. Ông cho rằng hình ảnh khi tan trường về của học sinh Nữ Trung Học Nha Trang là hình ảnh thú vị mà ông không thể nào quên.  
 Ông nói: “Mỗi lần nghe những tiếng kẻng báo giờ tan học và thấy hai cánh cửa sắt của ngôi trường Nữ Trung Học Nha Trang mở rộng thì những thương binh chúng tôi ở quân Y Viện sẽ được chứng kiến hằng trăm nữ sinh túa ra cổng trường như những đàn bướm trắng thật đáng yêu! Cho nên, thương binh chúng tôi thường có thói quen ngồi ở các khung cửa sổ của các phòng trong quân Y Viện chờ giờ tan trường ở bên đó để ngắm nhìn. Đến bây giờ, lưu lạc trên xứ người, xa quê hương Nha Trang ba, bốn chục năm trời, mỗi khi chứng kiến cảnh tan trường của học sinh trung học, tôi thường nhớ đến những nữ sinh của trường Nữ Trung Học Nha Trang ngày nào.”
Tôi đã tinh nghịch hỏi ông rằng người bạn đời của ông có phải là một trong những nữ sinh của trường Nữ Trung Học Nha Trang không thì ông trả lời không. Nhưng ông tiếp tục huyên thuyên về những nhạc phẩm và những bài thơ có liên quan đến những tà áo trắng để khẳng định mỹ cảm của ông về những chiếc áo dài trắng ngày xưa của nữ sinh trường Nữ Trung Học Nha Trang. Dường như ký ức đẹp đẽ ấy mãi mãi là dấu ấn khắc sâu trong tâm hồn ông mà qua bao năm tháng ông không tìm lại hình ảnh nào khác có thể thay thế được.
 Tôi hiểu hàm ý trong những lời tâm sự của ông. Chẳng khác gì ông, tôi đã từng nhớ quay quắt những tà áo trắng ngày xưa. May mắn thay, sau một thời gian dài vắng bóng, những chiếc áo dài trắng từ từ xuất hiện trong các trường học của Việt Nam mà khởi sự từ năm 1987 cho mãi đến ngày nay. Tuy nhiên, chúng chỉ xôn xao làm tôi xúc động trong vài năm đầu, rồi sau đó xao nhãng dần.  Và mỗi khi tôi nghĩ lại những tà áo trắng ngày xưa và những cá tính của những nữ sinh chúng tôi khi khoác những chiếc áo trắng xa xưa ấy, tôi cảm thấy chạnh lòng.
 Nhiều lần tôi tự hỏi: “Tại sao ta đặt sự phân biệt trong nhận thức?”, “Tại sao ta không cởi mở với ý nghĩ rằng: Mỗi thời có một kiểu cách riêng biệt, không thể so sánh cái cũ với cái mới.” và “Tại sao ta không thừa nhận thực tế rằng ở mỗi thời đại khác nhau, tính cách của sự vật khác nhau.” Nhưng, cho dù tôi tự đặt ra những biện luận để giải thích quan niệm “Chiếc áo không làm nên thầy tu”, tôi vẫn không thể nào tìm thấy cái “hồn” trong những chiếc áo trắng ngày nay.
Tuy rằng áo trắng của các nữ sinh trung học ngày nay cũng mang ý nghĩa của trinh nguyên, và trong trắng nhưng chúng không thực sự toát nên vẻ thuỳ mỵ và nết na của người mặc như các nữ sinh ngoan hiền và đoan trang của thời trước năm 1975. Khác với nữ sinh áo trắng trong trường công lập toàn là nữ sinh trước đây, các em áo trắng ngày nay học chung với các em nam sinh và thường giao tiếp hàng ngày với các bạn nam trong lớp. Sự quen thuộc và gần gũi giữa nam và nữ đã tạo nên sự dạn dĩ trong giao tiếp đến mức có khi các em nữ đối đáp thẳng thắn và hành xử bình đẳng bất chấp giới tính. Trong lúc các em nữ không có sự e dè và các em nam không có sự giới hạn về khoảng cách, sự phải lòng nhau hay tán tỉnh dễ dàng xảy ra.
Cũng vì thế các em nữ sinh áo trắng thời nay không có những cảnh: “trồng cây si trước cổng trường, “Em tan trường về anh theo Ngọ về”, những bức thư tình hẹn hò gửi vội, những ngón tay run run vân vê tà áo, những đôi má ửng hồng khuất dưới những vành nón lá bài thơ…như thời xa xưa của chúng tôi.  
Bởi vì nữ sinh của các trường nữ trung học công lập trước năm 1975 không có điều kiện giao tiếp với nam sinh; cho nên, hầu hết các nữ sinh áo trắng trong thời chúng tôi đều e dè trước những người khác phái bất kỳ là người lớn hơn hay cùng trang lứa. Thêm vào đó, những bài giảng trong các lớp học Nữ Công Gia Chánh, Công Dân Giáo Dục, Việt Văn, Triết học và sự kỷ luật nghiêm minh của trường luôn rèn luyện chúng tôi bốn phẩm chất “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” của người phụ nữ Việt Nam đoan chính.Sự hướng dẫn trong những giờ học Nữ Công Gia Chánh đã giúp chúng tôi biết may vá thuê thùa, biết nấu vài món ăn thông thường, biết làm các món bánh mứt và nhất là  giúp chúng tôi hiểu được giá trị của công việc tề gia nội trợ. Ngoài ra, trong những buổi chào cờ,  chúng tôi luôn được nhắc nhở chuyện trau dồi bản thân qua những câu chuyện ý nghĩa và luôn có  cơ  hội quan sát phong cách gương mẫu của cô hiệu trưởng và tất cả các cô giáo trong trường. Cô hiệu trưởng Bùi Ngoạn Lạc luôn mặc những chiếc áo dài nhạt màu, cao cổ, tóc bới gọn với cử chỉ khoan thai. Giáo sư Nữ Công Gia Chánh Thái Thị Bạch Vân hay mặc những chiếc áo dài bông nền nã, nói năng dịu dàng, thân ái. Giáo sư hội họa Nguyễn Thị Thanh Trí thường có những chiếc áo dài mới đủ màu với những đóa hoa lớn nhỏ rực rỡ hay hình lập thể lạ mắt và đầy tính nghệ thuật. Hầu hết các nữ giáo sư trong trường đều có phong cách đặc biệt nhất định với những chiếc áo dài màu đặc biệt nhưng tất cả đều toát lên hình ảnh mẫu mực với vẻ đẹp cao quý khiến cho những nữ học sinh chúng tôi luôn để ý, noi theo. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ học cách ăn nói nhỏ nhẹ, cách đi đứng khoan thai, cử chỉ dịu dàng chứ không bắt chước cách mặc áo dài thướt tha đến gần chấm đất của các cô. Và cũng không ai trong chúng tôi thích mặc kiểu áo dài chít bốn eo thắt (pince) bó sát eo. Ảnh hưởng thời trang của những chiếc quần tây ống pát, ống loe trong thập niên 60 và 70, chúng tôi thích mặc quần trắng ống rộng. Đồng thời để khoe những thùng rộng của những quần trắng, chúng tôi đều bắt chước nhau mặc áo dài tà ngắn đến nửa ống chân hay đến đầu gối.Thời ấy, có nhiều loại vải soie trắng rất tốt được bán ở hai tiệm vải Phạm Thị Một, Phạm Thị Hai trên đường Độc Lập Nha Trang. Chúng tôi đua nhau may áo dài soie một thời gian, nhưng rồi chán chê, cùng nhau may áo dài tơ theo mức sản xuất của các hãng dệt ở Sài Gòn thời ấy. Kèm theo những chiếc áo dài tơ đợn giản, chúng tôi bắt chước nhau mua những chiếc guốc gỗ quai nhựa đơn sơ và mua thêm chiếc nón bài thơ để tạo phong cách mộc mạc và dịu dàng như vẻ đẹp trong chữ “Dung” của “Công ,dung, ngôn, hạnh”.

Dung nhan dịu dàng và thanh khiết của chúng tôi không những biểu hiện qua những chiếc áo dài tơ trắng đơn sơ, những đôi guốc mộc mạc và chiếc nón lá giản dị mà chúng tôi luôn luôn trau dồi lời nói của mình, cách nói của mình và hành động của mình để luôn giữ hình ảnh lễ phép, trong sáng và hiền lành. Trước năm 1975, nữ sinh trường Nữ Trung Học Nha Trang chúng tôi thường xưng tên với nhau chứ hầu như không bao giờ xưng mày tao. Quá lắm chỉ là” “mi” “tau” như cách xưng hô của người Huế. Mỗi khi phải trả lời câu hỏi của thầy cô, chúng tôi thường mở đầu bằng câu “Dạ thưa thầy…” hay “Dạ thưa cô…” Khi thầy cô vào lớp, chúng tôi thường đồng loạt đứng lên, đứng nghiêm, cúi đầu chào.Đứng trước thầy cô chúng tôi thường có thói quen khoanh tay, cúi đầu. Chúng tôi không bao giờ dám cắt ngang lời nói của cô thầy. Mỗi khi muốn phát biểu điều gì, chúng tôi giơ tay xin phép và đợi đến khi được gọi tên mới dám nói.  Tôi chưa bao giờ nghe một bạn nào hay đồng môn nào trong trường Nữ Trung Học Nha Trang chửi thề hay nói tục và  tôi cam chắc rằng không có một ai trong trường dám nói những lời thô tục. Giả sử có một người nào ngông cuồng nói tục hay chửi thề thì người đó ắt phải bị tẩy chay, hay bị xa lánh ngay. Tôi chỉ nói giả sử chứ thực tế thì trường Nữ Trung Học Nha Trang chưa hề có nữ sinh nào dám thốt ra những lời không đẹp ấy.
 Có một lần, tôi vô tình đọc một câu chuyện ngắn của một vị nam giáo sư dạy trường Nữ Trung học Nha Trang rồi bâng khuâng suốt ngày với câu chuyện kể. Thầy kể lại chuyện có lần đi đến trường Nữ Trung Học trễ gần mười phút mà các nữ sinh trong trường vẫn đứng chờ thầy dưới những giọt mưa rơi. Thật là vậy, chúng tôi luôn thuộc lòng với những câu cách ngôn từ khi học tiểu học như: “Tiên học lễ hậu học văn” và luôn thực hành điều ấy qua hành động của mình.Tinh thần tôn sư trọng đạo thấm trong máu thịt chúng tôi tưởng chừng không có gì có thể thay đổi. Chúng tôi không những được uốn nắn trong ngôi trường nữ đầy kỷ luật nghiêm minh lại thêm ý thức hệ gia giáo xen lẫn nho giáo phong kiến của các gia đình trong thành phố nhỏ Nha Trang. Không ai bảo ai, những thiếu nữ chúng tôi đều tự kỷ luật bản thân, đều phải dè chừng trước những cám dỗ, và tránh dính dự vào những vụ tai tiếng để gìn giữ danh dự của gia đình mình. Cứ thế, với “luật bất thành văn”, các thiếu nữ áo trắng chúng tôi luôn nhắc nhở nhau gìn giữ bản thân mình để không phương hại đến thanh danh của bản thân và gia đình. Nếu chẳng may bị bạn chê cười (dù chỉ sau lưng) là “người ăn nói lỗ mãng, không ý tứ”, “nói láo, hỗn hào” , “không biết lễ phép”… đủ để xem đó là sỉ nhục.  Có lẽ vì được giáo dục trong cái vòng kỷ luật vô hình ấy mà chúng tôi luôn thận trọng trong lời ăn tiếng nói để ngôn ngữ của mình đẹp và sang không khác các cô giáo thần tượng của mình.
Người ta thường nói: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò!”  Và đúng thế! Là học trò, chúng tôi cũng có những lúc nghịch ngợm nhưng không bao giờ quá trớn. Nhiều nhất và “lớn” nhất  là “chuyện ăn vụng trong lớp” , “Nói chuyện trong lớp bằng những mẫu giấy viết truyền tay”, “cột các tà áo dài đến nỗi rách toạc nửa tà áo”, hay dán những mẫu giấy “Cần Chồng gấp!” sau lưng bạn. Tuy nhiên, những chuyện nghịch ngợm này thường biến mất sau các “vũ  khí”  lạnh lùng sương khói của những khuôn mặt giận dỗi,và những cuộc chiến tranh lạnh của những cái quay lưng, không nhìn mặt nhau hay im lặng. Nhưng sau đó, những bài học về Việt Nam, về  dân tộc Việt, về các cuộc chiến thắng của các vị anh hùng, về tình đồng bào, về lòng nhân hậu, hay sự bao dung trong những giờ Sử Ký, Địa Lý và Công Dân Giáo Dục đã làm mờ nhạt những giận hờn của những ngày trước đó. Sự giáo dục chu toàn đã giúp chúng tôi đã trở thành những cô gái áo trắng thực sự ngoan hiền và trong trắng như mục đích đào tạo của trường nữ Trung Học Nha Trang nói riêng và những trường nữ trung học có đồng phục áo dài trắng của hầu hết các trường nữ trung học của miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
 Có lẽ vì những chiếc áo dài trắng của các trường nữ trung học trước năm 1975 có “hồn” nên đã “hớp hồn” khá nhiều họa sĩ, thi sĩ, và nhạc sĩ thời ấy. Đã có khá nhiều bức vẽ những cô nữ sinh với những tà trắng thướt tha trong minh họa trong các cuốn Đặc San của các trường kể cả các trường nam trung học. Nhiều nhạc phẩm và thi phẩm mang “hồn áo trắng” như:
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng..
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng”
                                           NguyênSa
Hay
 
“Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài…”
           Phạm Thiên Thư
 
Hay
 
“Em tan trường về
Ðường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở
Tóc dài tà áo vờn bay …”
                  Phạm Duy
Dù là thế, nữ sinh áo trắng thời ấy không phải là những cô gái nhàm chán. Chúng tôi không phải chỉ luôn cúi đầu tuân thủ mọi thứ do được sắp xếp trước bởi thầy cô giáo hay răm rắp làm theo ấn định của nội quy và kỷ luật trường. Chúng tôi vô cùng sôi nổi trong các buổi thuyết trình về sự tiến hóa của các sinh vật trong các lớp Vạn Vật ngay từ lớp Đệ Lục (Lớp 7 sau này), phân tích thấu đáo về những ưu và khuyết của các chủ nghĩa tư bản, cộng sản và các cuộc chiến tranh Việt Nam và Thế Giới trong các giờ Lịch Sử trong các lớp 9,lớp 10, bàn luận trong các giờ Triết Học trong lớp 12 hay rèn luyện thể lực thật tốt trong những giờ Thể Dục. Chúng tôi còn biết sáng tạo trong những tiết mục Văn Nghệ, hợp tác tốt với nhau để cùng nhau thực hiện các chương trình thi đua do trường đề ra cho các lớp như trang hoàng cổng trại, bích báo của lớp, nấu ăn, làm hoa giấy, hay cắm hoa. Ngoài ra, chúng tôi còn tham gia nhiều cuộc thi đấu bóng bàn, bóng chuyền, bơi lội với các trường khác trong thành phố hay với các tỉnh khác.
Mấy chục năm qua, những tà áo trắng ngày xưa đã chìm vào quên lãng nhưng linh hồn của chúng vẫn  vẫn còn lưu đọng mãi trong từng cựu học sinh Nữ Trung Học chúng tôi. Ngày nay, mặc dù sinh sống trong những nước Dân Chủ, ngay cả ở quốc gia tự do và Dân Chủ bậc nhất như Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn giữ phẩm chất Công Dung Ngôn Hạnh như đã từng được giáo dục trong trường Nữ Trung Học Nha Trang.
 
Cho dù chúng tôi bận rộn với công việc làm để mưu sinh kiếm sống, sẵn sàng tham gia công tác cộng đồng, chúng tôi vẫn là những phụ nữ đảm đang, nội trợ giỏi, nuôi dạy con cái nên người và giữ gìn văn hóa Việt Nam. Chúng tôi biết cách sử dụng thời gian đúng đắn, biết tháo vát mọi việc trong nhà, biết giữ gìn vẻ đẹp hài hòa của tâm hồn và hình thể bên ngoài và luôn ăn mặc lịch lãm khi ra đường. Chúng tôi biết ứng xử phải phép, lịch sự và thông minh để có thể thuyết phục người nghe đồng thời hạn chế những tranh cãi vô ích. Chúng tôi không tựa vào quyền bình đẳng để lấn lướt người phối ngẫu của mình. Không “cầm quyền” cũng không “cầm tiền”để luôn nhận được những món quà và những bó hoa đẹp bất ngờ trong những ngày lễ.

 Có lẽ độc giả cho rằng tôi khá chủ quan khi đề cập vấn đề này. Thực sự là tôi đã đúc kết nhận định này từ kinh nghiệm thực tế khách quan, từ những câu chuyện thật và từ những cuộc quan sát rõ ràng và chính xác. Cho dù, đôi lúc tôi thầm nghĩ những tà áo trắng ngày xưa giống như trong chuyện cổ tích, không ai tin được. Nhưng, tôi tin những “nhân vật” trong truyện cổ tích ấy vẫn còn giữ “linh hồn” của chiếc áo trắng ngày xưa. Dù họ không có dịp chia sẻ ý nghĩ – quan niệm cá nhân về những tà áo trắng ngày xa xưa ấy, họ đã từng suy nghĩ tương đồng và từng hành xử đúng mẫu mực về “công, dung, ngôn, hạnh.”
 Cung Thị Lan
Ngày 23 tháng 9 năm 2021