MỘT THOÁNG HỒNG NHAN QUA CỰU-ƯỚC Nguyễn Đức Cung Đọc trong Cựu Ước chúng ta thấy nhân vật nữ xuất thân nghề hèn mọn trong lãnh vực nông tang đó là mót lúa ở Ít-ra-en trong lịch sử thời cổ đó là RÚT (Ruth), bà cố của vua Đa-Vít (David) cách 10 thế kỷ trước Công Nguyên.Nhưng trước khi đi vào tìm hiểu những biến cố chính trong cuộc đời bậc nữ lưu này thiết tưởng cũng cần thoáng qua đôi nét về thực trạng của nghề nông trong lịch sử Do-Thái. 1.- Văn hóa nông nghiệp Do Thái trong buổi đầu định cư trên đất hứa. Trong tất cả các tư liệu lịch sử có thể nói Cựu Ước là bộ sách để lại cho nhân loại nhiều hiểu biết về tình hình nông nghiệp đã nuôi sống một số dân tộc vùng Cận Đông trong đó có Do-Thái vào thời cổ đại, ít nhất là vào thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Tìm hiểu về nghề nông cùng những nông cụ cần thiết thời xưa ở đất Do-Thái, trong cuốn sách New Illustrated Bible Manners & Customs, How the People of the Bible really lived, Howard F. Vos cho biết: “Người nông dân dùng lưỡi cày bằng đá hay bằng đồng hoặc những cái cày bằng gỗ do bò kéo để trồng lúa mì, lúa mạch và các loại rau cải. Các bầy dê cừu gặm cỏ đó đây điểm xuyết thêm vào đó là những khóm chà là hoặc cây ăn trái. Cũng gặp thấy đó đây các hệ thống tưới tiêu mà buổi đầu đơn giản là những rãnh mương và những mô đất đắp cao làm bờ đê. Và phần lớn hệ thống tưới tiêu là như thế. Nhưng vào thời của Abraham, khi các vị vua còn cai trị các thị quốc (city-states), họ cho đào vét các kênh mương để dùng cho việc tưới tiêu và làm đường vận chuyển. Nông sản được chở tới các chợ trong thành phố trên những con kênh ấy từ nơi này đến nơi khác. Nhiều thuyền buồm tới tấp qua lại trên những con kênh của hệ thống tưới tiêu này.”1 Nền văn minh Ai Cập cũng như Lưỡng Hà Địa trong đó có quốc gia Ít-ra-en cơ bản là những nền văn minh nông nghiệp nên những hiểu biết cốt yếu về nghề nông như nông cụ, chính sách điền địa, hệ thống đê điều, thuế nông nghiệp, tình trạng những người dân nghèo, hạng bần nông, các nạn đói trong một quốc gia mới hình thành sau cuộc xuất hành khỏi đất Ai-Cập vào khoảng 1440 trước Công Nguyên v.v… là những mô thức đặc thù của một trong những nền văn minh tối cổ của nhân loại. Cũng trong cuốn sách trên, Howard F. Vos đã dựa trên các công trình nghiên cứu của Jacquetta Hawkes, Harriet Crawford và A. Leo Oppenheim cho biết từ khoảng năm 2.500 trước Công Nguyên đến 1.500 tr. CN nền văn minh nông nghiệp Sumer đã từng sáng chế một loại nông cụ vừa cày vừa gieo hạt được xem ra khá độc đáo: Một chiếc máy cày do đôi bò kéo với một người đi trước dẫn đường kéo theo một chiếc cày gắn một lưỡi nhọn vạch một đường nông vào mặt đất. Thân cày có hai chuôi do người thứ hai cầm lấy bằng hai tay. Trên thân cày có gắn một cái ống chạy dọc xuống theo chiều thẳng đứng, gần sát mặt đất, trên ống là một bộ phận hình như cái phễu. Một người thứ ba đi bên cạnh một tay bốc nắm hạt cho vào phễu, một tay mang bọc đựng hạt giống. Năm 1701 ở nước Anh, Jethro Tull đã sáng kiến chế ra loại máy gieo hạt nhưng đi đầu trong sáng kiến chế tạo nông cụ, người ta không thể không nhắc đến cái máy vừa cày vừa gieo nói trên.2 Ở Do Thái, cái liềm để gặt lúa thường làm bằng gỗ gắn vào đó là những mảnh đá lửa sắc cạnh. Dụng cụ này khá nặng cho nên chỉ dành cho đàn ông sử dụng. Từ cuộc sống bán du mục, dân tộc Do Thái khi vào Đất Hứa đã hình thành quốc gia của họ và với đời sống định cư nông nghiệp đã trở thành căn bản của sinh hoạt hằng ngày, cho nên Cựu Ước đã phản ảnh rõ nét nền văn minh vật chất và tinh thần của dân tộc đó. Sách Sáng Thế cho biết thủy tổ nghề nông của nhân loại là Cain vì ông này làm nghề cày cấy đất đai. Khi viết về chuyện ông Giu-se kể lại giấc chiêm bao của mình với các anh, Sáng Thế đã dùng đến hình ảnh bó lúa: “Giu-se chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu nói với họ: “Xin nghe em kể giấc chiêm bao của em. Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ở giữa đồng, thì bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh và sụp xuống lạy bó lúa của em. Các anh bảo cậu: “Mày muốn làm vua làm chúa thống trị chúng tao sao?” Và họ càng ghét cậu thêm vì những chiêm bao và những lời nói của cậu.” 3 Giấc mơ của vua Pha-ra-ô bên Ai Cập, một giấc mơ với nội dung kỳ bí mà chỉ có Giu-se mới giải nỗi, cũng được cấu thành theo hình ảnh hạt lúa, đã được Sáng Thế ghi lại như sau: “Vua ngủ lại và chiêm bao một lần thứ hai; vua thấy bảy bông lúa đâm lên trên cùng một cọng, mẩy và tốt. Rồi có bảy bông lúa lép và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. Bảy bông lúa lép nốt chửng bảy bông lúa mẩy và chắc. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy, thì thấy rằng đó là một giấc chiêm bao.”4 Trong triều đình không ai giải thích nỗi chỉ trừ có Giu-se khi ông cho biết Ai Cập sẽ trải qua bảy năm được mùa rồi tiếp đến bảy năm mất mùa. Ở Ai-Cập cũng như vùng Cận Đông, các sông ngòi lớn như sông Nile, Tigris và Euphrates giữ một vị trí quan trọng trong đời sống nhân dân. Ở các vùng ven sông, do nước sông dâng cao tràn vào các đồng bằng mà mùa màng tươi tốt, dân chúng cày cấy thuận lợi chứ không phải do lượng nước mưa. Những khi nước sông không dâng cao, người ta phải tìm cách kéo nước từ sông Nile lên tưới vào con kênh nằm cao hơn mặt nước sông. Từ thời Giu-se (khoảng thế kỷ 18 trước Công Nguyên), sau nhiều thế kỷ lăn lộn trong nghề nông, người dân Ai-Cập cũng như vùng Cận Đông đã biết làm thế nào để đưa những khối nước quý giá của sông Nile và các sông ngòi khác vào những kênh tưới trên những mực độ cao hơn mặt sông. Họ dựng hai trụ gỗ đứng khá cao với một thanh gỗ nằm ngang. Giữa thanh gỗ buộc một cần dài cũng bằng gỗ, một đầu buộc vào tảng đá lớn, đầu kia buộc sợi dây thừng cột một chiếc gàu. Họ cầm sợi thừng kéo nhúng chiếc gàu xuống đầy nước rồi nhấc nhẹ lên do sức trĩu nặng xuống của phía đầu cần gỗ có tảng đá. Cứ thế họ đổ nước vào những con kênh dẫn vào đồng ruộng. Ở Ai-Cập cũng như tại Do-Thái, trong thời xưa, các trận đói không phải là ít khi xảy đến thường là do mưa không đúng thời vụ, mưa đá phá hoại mùa màng, nạn châu chấu hay bươm bướm gây thiệt hại cho hoa mầu, hoặc có khi nạn thiếu hụt thực phẩm vì bị vây hãm. Bệnh dịch tả thường xảy ra tiếp theo nạn đói. Các trận đói là hậu quả của những nguyên nhân tự nhiên được ghi lại qua cuộc đời của các tổ phụ như Abraham (Sáng thế 12:10), Giu-se (Sáng thế 41:56), các thủ lãnh (Rút 1:1), Đa-vít (2Sa 21:1) Ahab và Elijah (1Ki 17: 1; 18:2) và Elisha (2Ki 4:38; Lk 4:25) v.v… Tuy nhiên, đặc biệt là nạn đói xảy ra ở đất Canaan khiến Gia-cóp phải sai các con của mình sang Ai-Cập tìm mua lúa để cứu đói. Sách Sáng Thế ghi lại trình thuật ấy như sau: “Ông Gia-cóp thấy bên Ai-cập có lúa bán, liền nói với các con trai: “Sao các con cứ ngồi nhìn nhau?”Rồi ông nói: “Cha nghe nói bên Ai-cập có lúa bán; các con hãy xuống đó mua lúa về, để chúng ta sống chứ không phải chết.”Mười người anh ông Giu-se bèn xuống mua lúa mì ở Ai-cập. Nhưng Ben-gia-min, em của ông Giu-se, thì ông Gia-cóp không sai đi với các anh, vì ông nói: “Lỡ ra nó gặp tai họa.”5 Ông Giu-se cùng Ben-gia-min là anh em cùng một cha một mẹ (mẹ là bà Ra-khen). Nhờ nạn đói và cũng nhờ mua được lúa mì ở Ai-cập mà anh em ông Giu-se được đoàn tụ lại với nhau, cũng đúng như người xưa thường nói “ Họa trung hữu phước”. Một số nghi lễ có liên quan đến nông sản trong Do Thái giáo cũng được sách Cựu Ước ghi lại và sau đây là trình thuật của Lê-vi: “Nếu (các) ngươi tiến dâng ĐỨC CHÚA của đầu mùa làm lễ phẩm, thì phải tiến dâng gié lúa rang, hột lúa mới đã xay, làm lễ phẩm của đầu mùa. (Các) ngươi sẽ đổ dầu lên trên và bỏ nhũ hương vào. Đó là lễ phẩm. Tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút phần kỷ vật dành cho ĐỨC CHÚA, tức là một phần hột lúa xay và dầu cùng với tất cả nhũ hương. Đó là lễ hỏa tế dâng ĐỨC CHÚA.” 6 Trong một trình thuật khác của sách Lê-vi, chúng ta đọc thấy: “ ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: “Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi. Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA để cá ngươi được đoái nhận; tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau ngày sa-bát. Ngày các ngươi làm nghi thức tiến dâng bó lúa ấy, các ngươi phải dâng một con chiên toàn vẹn, một tuổi, làm lễ toàn thiêu lên ĐỨC CHÚA, cùng với lễ phẩm là chín lít tinh boat nhào với dầu: đó là lễ hỏa tế dâng ĐỨC CHÚA, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA; lễ tưới rượu kèm theo là hai lít. Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới. Đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.”7 Sau khi vào Đất Hứa (1440 trước Công nguyên), dân Do Thái có tục thánh hiến ruộng đồng của mình cho Đức Chúa và được quy định theo sách Lê-Vi như sau: “Nếu một người thánh hiến cho ĐỨC CHÚA một cánh đồng là sở hữu của mình, thì phải dựa vào số lượng lúa giống mà định giá: hai mươi thùng giống lúa mạch là mười lăm lạng bạc. Nếu nó thánh hiến cánh đồng ngay từ năm toàn xá, thì cứ theo như giá đã định. Nếu nó thánh hiến cánh đồng sau năm toàn xá, thì tư tế sẽ tính giá tùy theo số năm còn lại cho đến năm toàn xá, và có giảm bớt giá đã định.”8 Tư liệu cũng quy định luật lệ về cánh đồng đã thánh hiến mà muốn chuộc lại, cánh đồng đã mua chứ không thuộc quyền sở hữu v.v. cũng nói lên tính phức tạp, chi li của các luật lệ Do Thái thời cổ. Dưới con mắt của người thủ lãnh Do Thái, đôi khi một cánh đồng lúa của kẻ địch cũng trở thành mục tiêu phá hoại trong cuộc chiến đấu để nòi giống sinh tồn hay trút sự hận thù quốc gia lên các dân tộc khác. Xin đọc trình thuật sau đây của sách Thủ Lãnh nói về chuyện ông Sam-sôn, một nhân vật đứng trong hàng thủ lãnh của Ít-ra-en, thường được thần khí Thiên Chúa hỗ trợ, để tóc dài nên có sức mạnh vô địch: “Ít lâu sau, vào mùa gặt lúa miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông nói: “Tôi muốn vào phòng ngủ của vợ tôi”; nhưng bố vợ không cho ông vào. Bố vợ nói: “Thật sự tôi tưởng là anh đã chán ghét nó, nên tôi đã trao nó cho người đã làm phù rể cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó đi!” Ông Sam-sôn nói với họ: “Lần này thì tôi vô tội đối với người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại chúng.” Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói; lấy đuốc, rồi cột ngược đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi. Ông châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả nho và ô-liu nữa. Người Phi-li-tinh hỏi: “Ai đã làm chuyện này?” Và người ta đáp: “Đó là Sam-sôn, con rể ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù rể của hắn.” Những người Phi-li-tinh đi lên, nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha nàng. Ông Sam-sôn nói với họ: “Vì chúng bay đã làm như thế, thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi.” Ông đánh cho chúng một trận tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.” 9 Trước năm 1975, ở Sài Gòn nhiều người đã có dịp thưởng thức cuốn phim Samson et Dalilah với màn ảnh đại vĩ tuyến chắc cũng còn nhớ đôi chút câu chuyện truyền kỳ về sức mạnh thần thánh của vị thủ lãnh Do Thái này. Trong việc gặt lúa hay thu hoạch các cây trái, hoa quả, Cựu Ước cũng có những điều khoản quy định nhằm giúp đỡ cho người nghèo khổ, vô gia cư, hay kẻ góa bụa và ngoại kiều cư trú trên đất Do Thái và có lẽ đây là điều luật đặc biệt nhất mà nhiều quốc gia khác lúc bấy giờ và cho đến nay không có. Xuất hành ghi lại như sau: “Trong vòng sáu năm, ngươi sẽ cày cấy ruộng đất ngươi, gieo trồng và thu hoa lợi. Nhưng năm thứ bảy, ngươi sẽ để đất ngưng sinh hoa màu, để đất hưu canh; những người nghèo trong dân ngươi sẽ được hưởng hoa màu đó, những gì còn lại thì bỏ cho dã thú ăn. Vườn nho và vườn ô-liu, ngươi cũng sẽ làm như thế.”10Trong sách Lê-vi, có những điều khoản quy định cụ thể hơn: “Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không được nhặt; (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.”11 Trong cuốn sách Great people of the Bible and how they lived, tác giả giải thích rằng có lẽ vì người gặt khó vung lưỡi liềm ở sát các bờ ruộng nên lúa mọc ở đó phải chừa lại.12 Thực tế là nếu người gặt tham lam, không có lòng bác ái thì góc nào, xó xỉnh nào họ cũng thu vén được hết, nhưng ở đây là điều luật của Thiên Chúa được ghi trong văn bản rõ ràng nên họ phải thi hành. Ngoài ra sách Lê-vi còn quy định thuế thập phân như sau: “Mọi thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của đất và từ hoa trái của cây cối, đều thuộc về ĐỨC CHÚA: đó là của thánh dâng ĐỨC CHÚA. Nếu người nào muốn chuộc một phần thuế thập phân, thì phải trả thêm một phần năm.” 13 2.- Nét hiền thục của một thiếu phụ mót lúa trong Cựu Ước. Chuyện bà Rút mót lúa nằm trong sách Ruth mà trong bản Hy-lạp, La-tinh và các bản dịch mới, sách này (viết khoảng năm 1,000 trước Công Nguyên) được đặt liền sau sách Thủ lãnh. Tác giả sách đó vô danh, cũng được gán cho tiên tri Samuen. Câu chuyện xảy vào thế kỷ 12 trước Công Nguyên trong những ngày các thủ lãnh cai trị khi các bộ lạc miền bắc thường xuyên phải chiến đấu chống các thành phố có tường thành bảo vệ đồng thời hãn ngự các cuộc xâm lăng của các nhóm Ammonites và Midianites ở phía đông thì bộ tộc Judah chiếm vùng đất phía nam Ít-ra-en tương đối được hòa bình nhưng lại phải đương đầu với một kẻ thù khác đó là khí hậu. Bình thường đất đai phì nhiêu đủ để cho các loại lúa mì, lúa mạch hoặc các vườn nho, các đồi ô-liu hay cây vả có thể sinh hoa kết quả, nhưng rồi thỉnh thoảng trời hạn nên mùa màng thất bát và nạn đói kéo đến. Ở thành phố Bê-lem (Bethlehem) có ông Ê-li-me-léc (Elimelech), trong thảm cảnh đói kém, đã đem vợ là Na-o-mi (Naomi) cùng hai con trai là Mác-lôn (Mahlon) và Kin-giôn (Chilion) trẩy đến Mô-áp (Moab), một vương quốc ở trên cương vực phía đông của Biển Chết (Dead Sea) cách Bê-lem cũng khoảng 30 hay 40 dặm vì nghe nói ở đấy dễ sinh sống hơn. Truy nguyên về nguồn gốc tiên tổ, dân Ít-ra-en và dân Mô-áp có cùng huyết thống với tổ phụ Abraham nhưng dân Ít-ra-en thờ phụng Thiên Chúa, còn dân Mô-áp thờ thần Chemosh 14 với những lễ nghi mà dưới con mắt dân Ít-ra-en thì đó là tội lỗi. Trải qua nhiều thế kỷ, sự khác biệt về tôn giáo và tranh chấp về chính trị là nguồn gốc của tình trạng xung đột giữa hai sắc dân này. Con trai Ít-ra-en thường mê mẩn trước sắc đẹp của con gái Mô-áp nên nhiều kẻ bị dụ dỗ bỏ Thiên Chúa mà chạy theo thần Chemosh khiến cho Thiên Chúa đã giáng những trận ôn dịch xuống trên hàng ngàn những kẻ tội lỗi. Do vậy những người công chính trong hàng ngũ Ít-ra-en thường rất ghét đàn bà, con gái Mô-áp. Cho đến nay người ta cũng không rõ vì sao Ê-li-me-léc chọn Mô-áp làm đất lập lại cuộc đời, có thể vì những quan hệ cá nhân hay thương mãi khiến ông có thể thuê mướn đất cách dễ dàng, hoặc đó là nơi mưa hòa gió thuận có thể khiến ông thịnh vượng, sung túc lại cũng nên.15 Nhưng rồi chẳng bao lâu sau đó ông Ê-li-me-léc chết để lại bà Na-o-mi và hai đứa con trai. Hai con trai này lớn lên cũng lấy vợ Mô-áp bất kể các truyền thống thù nghịch giữa hai bên. Mác-lôn lấy cô Rút và Kin-giôn lấy cô Oóc-pa (Orpah). Mười năm sau hai người con trai cũng chết và bấy giờ cả ba bà góa này phải đối diện với một cuộc sống và tương lai hết sức bấp bênh. Đối với việc kế thừa trong gia đình người Do-Thái, sách Đệ nhị luật quy định rằng: “Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xóa khỏi Ít-ra-en.Nhưng nếu người đàn ông ấy không thích lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa: “Người anh em chồng tôi từ chối không chịu lưu truyền tên tuổi của anh em mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với tôi.” Các kỳ mục trong thành sẽ gọi người đàn ông ấy đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói: “Tôi không thích lấy cô ấy.”Người chị hay em dâu sẽ đến gần người ấy trước mặt các kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào mặt người ấy và lên tiếng nói: “Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì phải xử như thế đó!” Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là “nhà kẻ bị lột dép.”16 Những điều khoản này sẽ có liên quan đến trường hợp góa bụa của bà Rút trong diễn tiến câu chuyện ở sau. Đối với hai bà góa trẻ, hương sắc còn mặn mà thì việc tìm người đàn ông Mô-áp để tái giá là chuyện dễ dàng, nhưng còn bà Na-o-mi đã già cả và qua thời sinh con làm sao có thể lấy chồng lại được? Vì vậy bà Na-o-mi quyết định cho hai nàng dâu trở về nhà cha mẹ họ, còn bà sẽ trở về Bê-lem tìm cách sinh sống vì nghe nói Đức Chúa đã cho đất Giu-đa được mùa. Hai người con dâu khóc lóc nhưng rồi Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà. Trình thuật của sách Rút chép rằng: “Bà Na-o-mi nói: “Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!” Rút đáp: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất. Xin ĐỨC CHÚA phạt con thế này và thêm thế kia nữa, nếu con lìa xa mẹ mà không phải vì cái chết!” 17 Nghe vậy bà Na-o-mi không còn ép nữa và cả hai mẹ con lên đường ngược phía bắc đi khoảng 4, 5 ngày. Đến gần Giê-ri-khô, họ bước qua sông theo chỗ nông, hướng về phía tây qua vùng sa mạc cháy bỏng của đất Giu-đa và kìa những ngọn đồi mướt xanh màu cỏ của vùng trung tâm Giu-đa đã nằm trong tầm mắt của họ với ngôi làng nhỏ Bê-lem. Thời gian ấy khắp nơi đang bước vào mùa gặt lúa mạch trong bảy tuần lễ từ giữa tháng Tư đến khoảng giữa tháng Sáu. Tin tức bà Na-o-mi nghe là đúng: thời gian đói kém của xứ Giu-đa đã qua và năm ấy mưa nhiều nên ruộng đồng được vụ mùa bội thu sẵn sàng chờ gặt, lúa mạch trước và sau đó vài tuần là lúa mì. Bà Na-o-mi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giả tên là Bô-át (Boaz). Rút, người Mô-áp, nói với bà Na-o-mi: “Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con.” Bà trả lời: “Con cứ đi đi.” Thật ra mót lúa không phải là công việc nhẹ nhàng vì phải cúi khom lưng suốt cả ngày, dưới bóng nắng thiêu đốt, theo dõi các cụm lúa sót khắp nơi và phải mót liền tay. Rút may mắn gặp một thửa ruộng của ông Bô-át. Ông Bôâ-át nói với người trông coi thợ gặt: “Cô kia là người của ai thế? Người kia trả lời: “Đó là một thiếu phụ Mô-áp, người đã cùng với bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp trở về. Cô đã nói: ‘Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt.’ Cô ấy đã đến và ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào.”Ông Bô-át nói với Rút: “Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc. Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: “Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc?” Ông Bô-át đáp: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới. Xin ĐỨC CHÚA trả công cho con vì những gì con đã làm! Chớ gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, thưởng công bội hậu cho con. Người là Đấng cho con ẩn náu dưới cánh Người!” Nàng nói: “Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một nữ tỳ của ông.”18 Ông Bô-át cảm nhận được tất cả nét hiền thục, dịu dàng trong con người thiếu phụ tuy nghèo khổ nhưng chân chất nên đã tỏ ra ân cần săn sóc, thí dụ đến bữa ăn, ông nói với nàng : “Con lại gần đây, lấy bánh chấm vào nước dấm mà ăn.” Rút ngồi bên cạnh thợ gặt. Ông Bô-át đưa cho nàng một mớ lúa rang. Nàng ăn no và còn để dành nữa. Rồi nàng trỗi dậy mót lúa. Ông Bô-át dặn dò các tôi tớ ông rằng: “Cho dù cô ấy có mót ngay giữa những bó lúa đi nữa, các anh cũng đừng nhục mạ cô ấy. Hơn nữa, các anh hãy để ý rút vài bông lúa ra khỏi đống lúa đã gặt và để lại cho cô ấy mót. Đừng trách móc cô ấy làm gì.” Đến chiều, Rút đã kiếm được một số lượng lúa mạch khá nhiều đến gần hai thúng đưa về nhà. Bà Na-o-mi trố mắt vì ngạc nhiên trước thành quả người con dâu bà thu hoạch được. Ông Bô-át đã đối xử với Rút như người trong gia đình nhưng với phong cách thật tế nhị và đầy lòng thương yêu. Tuy vậy, điều mà bà Na-o-mi quan tâm không phải là những bó lúa mót được mà là một tập tục liên quan tới anh em chồng (levirate marriage) 19 có thể ảnh hưởng tốt cho Rút trong tương lai khi mà ông Bô-át tỏ rõ lòng quý mến của ông đối với Rút bằng những cử chỉ săn sóc đặc biệt. Tập tục đó bảo đảm sự an toàn cho một bà góa nghèo khổ và không ai bạn bè là nếu bà góa không có con thì có quyền hy vọng em trai chồng mình có thể lấy mình làm vợ. Nếu chồng không có em trai thì một người đàn ông trong họ hàng được quyền làm chuyện đó. Bất cứ người thân thích nào cưới bà góa đó đương nhiên trở thành vị cứu tinh hay bảo hộ cho bà. Đứa con trai đầu có được với bà góa đó qua cuộc hôn nhân mới được kể như là con của người chồng trước đã quá cố và nó có quyền thừa hưởng gia nghiệp người kia. Bà Na-o-mi trước đây không nghĩ mình có thể được chi phối bởi tập tục đó vì bà đã qua thời sinh đẻ, còn Rút thì chỉ là một người đàn bà dân tộc Mô-áp vốn bị người Do-Thái coi khinh, nhưng nay thấy các cử chỉ thương yêu của ông Bô-át với Rút tức khắc trong lòng bà già kia bắt đầu bùng lên tia lửa hy vọng. Sau vụ gặt dĩ nhiên công việc đập và sàng lúa bắt đầu. Dân Do-Thái cũng đập lúa nghĩa là tách hạt ra khỏi cọng lúa bằng cách dùng gậy đập mạnh vào các bó lúa hoặc dùng từng cặp bò dẫm xéo quanh sân lúa. Có khi người ta cột vào cổ súc vật một chiếc xe giống xe trượt tuyết ở dưới gầm có gắn nhiều cục đá hay kim loại cán đi cán lại trên các bó lúa, vừa tách hạt lúa vừa làm nát các cọng lúa biến thành rơm rạ. Lắm lúc người ta quạt lúa để tách hạt chắc ra khỏi vỏ trấu bằng cách dùng cái chĩa (VN ta gọi là đinh-ba) có 5, 6 ngạnh xĩa tung lên hoặc dùng cái thuỗng xòe như cánh quạt tung lên trời cho gió thổi vỏ trấu nhẹ và bụi bặm bay về một phía. Các hạt lúa mạch hay lúa mì nặng sẽ rơi xuống đất. Việc quạt lúa thường tiến hành vào buổi chiều hay xế chiều khi những cơn gió nhẹ và ấm từ Địa Trung Hải thổi vào. Sau đó người ta sàng lúa để tách lần nữa các hạt ra khỏi vỏ trấu với những cái nia tròn có vành gỗ chung quanh bọc bằng những tấm da thuộc mềm. Hạt lúa sau khi được sàng sẩy sẽ cho vào các vò bằng đất nung cất trong kho. Suy nghĩ về thân phận đứa con dâu bất hạnh của mình, bà Na-o-mi chợt nhớ về quyền bảo tồn dòng dõi của ông Bô-át nên nhân chính vào đêm ông đi rê lúa mạch ở dưới sân lúa, bà bảo Rút đi tắm rửa, xức dầu thơm, khoác áo choàng vào, rồi đi xuống sân lúa. Bà dặn Rút đừng cho ông Bô-át nhận ra trước khi ông ăn uống xong. Khi ông tới nằm ngủ đầu đống lúa, thì Rút nhẹ nhàng đi tới đó, lật góc chăn phủ chân ông và nằm xuống, dụng ý là muốn ông Bô-át là kẻ che chở cho nàng. Trình thuật của sách Rút viết về đoạn này như sau: “ Vào giữa đêm, ông Bô-át rùng mình; ông trở mình thì thấy một phụ nữ nằm dưới chân. Ông hỏi: “Chị là ai?” Nàng đáp: “Con là Rút, tớ gái của ông. Xin ông giăng vạt áo choàng ra mà phủ lấy tớ gái của ông, vì ông là người bảo tồn dòng dõi.”Ông nói: “Này con, xin ĐỨC CHÚA ban phúc lành cho con! Việc hiếu nghĩa thứ hai con đã làm còn có giá hơn việc trước: con đã không chạy theo các người trai trẻ, dù họ nghèo hay giàu. Giờ đây, hỡi con, con đừng sợ. Tất cả những điều con sẽ nói, ta sẽ làm cho con. Vì mọi người hội họp ở cửa thành này đều biết con là một phụ nữ đức hạnh. Quả thật hiện nay ta là người bảo tồn dòng dõi, nhưng còn có người bảo tồn dòng dõi họ hàng với con gần hơn ta. Con cứ qua đêm ở đây. Sáng mai, nếu người ấy muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi đối với con thì tốt, người ấy cứ việc; nếu người ấy không muốn thì, có ĐỨC CHÚA hằng sống, ta thề sẽ dùng quyền đó! Hãy ngủ đi cho đến sáng.” 20 Tờ mờ sáng, ông Bô-át chỗi dậy bảo Rút đưa vạt áo choàng ra cầm chắc lấy và ông đong cho nàng sáu đấu lúa mạch rồi nói: “Con không được trở về nhà mẹ chồng tay không.” Sau đó ông ra cửa thành Bê-lem là trung tâm sinh hoạt của thành phố và ngồi đợi thì kìa người bà con ông muốn tìm đã đi tới. Ông gọi người đó lại và cho mời 10 người trưởng lão đến để chứng kiến công việc ông dự trù trong trí. Sách Rút viết tiếp rằng: “Ông nói với người bảo tồn nòi giống: “Bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp mới về, định bán thửa ruộng của người anh em chúng ta là Ê-li-me-léc. Phần tôi, tôi nghĩ là cần phải báo cho ông biết rằng; trước mặt quý vị hiện diện ở đây và các kỳ mục trong dân, ông hãy tậu thửa ruộng ấy! Nếu ông muốn dùng quyền bảo tồn nòi giống của ông, thì xin hãy dùng; bằng không thì xin tuyên bố cho tôi biết, vì ngoài ông ra, không ai có quyền bảo tồn nòi giống; còn tôi thì chỉ đứng sau ông.”Người ấy nói: “Vâng, tôi sẽ dùng quyền bảo tồn đó.” Ông Bô-át nói: “Ngày nào ông tậu ruộng chính tay bà Na-o-mi bán, thì lúc đó ông cũng phải lấy cả cô Rút người Mô-áp, vợ của người quá cố, để gia nghiệp người đó mãi mãi mang tên người đó.”Người bảo tồn dòng dõi nói: “Thế thì tôi không thể dùng quyền bảo tồn đó được, để khỏi làm hại gia nghiệp của tôi. Xin ông thay tôi mà dùng quyền đó, vì tôi không thể dùng được.” 21 Trong đời sống xã hội của người Do-Thái, cửa thành (the city gate) là một vị trí trọng yếu vì là nơi hội họp của một số kỳ mục, trưởng lão để xét xử các việc tranh tụng về của cải, làm chứng cho các kết ước, và xét xử một số các vụ án từ ăn cắp súc vật cho đến sát nhân. Nói chung họ là thẩm phán của thời bình. Nếu các vị này quyết nghị một người nào đó là có tội, người ấy có thể bị trừng trị tại chỗ. Trong tác phẩm Archaeological Study Bible, có phần phụ chú nói về cửa thành (the city gate) như sau: “Cửa thành giữ một vai tuồng quan trọng trong cơ cấu phòng vệ của thành. Trong thực tế “chiếm được cửa thành” là “chiếm được thành” (Sáng thế 24: 60). Tuy nhiên, vai tuồng của một cửa thành như vậy cũng lan rộng ra trong các lãnh vực kinh tế, pháp lý và dân sự của cuộc sống. Ở Mesopotamia, các khu vực láng giềng thường hình thành dựa trên liên hệ về bà con và nghiệp vụ được tổ chức quanh các cửa thành khác nhau. Chợ búa hay các cơ sở pháp lý đặc thù thường tổ chức ở các cửa thành (2 Các vua 7:1). Thí dụ, Abraham mua hang Machpelah (Sáng thế 23:3ff.) tại một cửa thành và Boaz được trao quyền sở hữu của cải thực sự và có được bà Rút làm vợ ở tại một địa điểm như vậy (Ruth 4: 1ff). Các vị vua thường tổ chức các cuộc hội kiến với thần dân ở đó, và các tiên tri nói chuyện với các người trong hoàng tộc và dân chúng cũng tại các cửa thành như vậy. (2Samuen 19:8); 1Các vua 22:10; Giê-rê-mi-a 17:19). Ở Tel Dan, những cuộc khai quật khảo cổ bên trong cấu trúc một phần cửa thành ngoài đã phát hiện một khán đài cao trên đó thiết trí một ghế ngồi có tàn che cho vị vua hay thẩm phán và một ghế dài cho các vị trưởng lão. Sự thiết trí này điểm xuyết cho những mô tả của Kinh Thánh về những vụ án được đệ trình trước các bậc trưởng lão. (Đệ nhị luật 22:15; 25:7), và những bản án được đem ra thi hành (Đệ nhị luật 17:5; 22:24) tại một địa điểm như thế. Được ngồi tại một cửa thành giữa các bậc trưởng lão (Gióp 29:7; Châm ngôn 31:23) nói lên niềm vinh dự trong khi quyền được đi vào cửa thành biểu lộ quyền công dân (Sáng thế 23:10-18) ngay cả trong thành Giê-ru-sa-lem mới (Khải huyền 22:14). 22 Theo phong tục của người Do-Thái thời xưa, khi có chuyện liên quan tới quyền bảo tồn hay việc đổi chác, để xác nhận việc đó, người này phải cởi một chiếc dép trao cho người kia. Vì vậy người bảo tồn dòng dõi cởi ngay chiếc dép trao cho ông Bô-át và ông này giơ cao lên cho 10 vị trưởng lão kia thấy để làm chứng cho điều vừa kết ước. Ông Bô-át lúc đó được quyền hưởng tất cả gia nghiệp mà Ê-li-me-léc và các con trai ông để lại và được luôn cô Rút, người dân Mô-áp làm vợ của ông. Rút sinh cho ông Bô-át một đứa con trai. Bà Na-o-mi rất đỗi vui mừng. Các bà hàng xóm láng giềng đến thăm tấp nập và đặt tên cho nó là Ô-vết (Obed). Giới học giả Kinh Thánh cho rằng kết thúc có hậu của chuyện bà Rút cũng là một khởi đầu quan trọng bởi vì Ô-vết, con của Rút là cha của Gie-sê (Jesse), Gie-sê sinh ra vua Đa-vít là vị thánh vương được trọng vọng nhất trong lịch sử Do Thái và trong Thiên Chúa Giáo. Trong một cuốn truyện viết về cuộc đời vua David, có tên King of Kings, Malachi Martin, nguyên giáo sư tại Giáo Hoàng Học Viện Về Kinh Thánh cho biết kỹ nữ Ra-kháp mà chúng tôi có lần đề cập tới trong bài viết về tình báo trong Cựu Ước, là một thành viên trong danh gia vọng tộc của Gie-sê. 23 Nhìn chung, Rút tuy là người ngoại giáo nhưng chấp nhận Do Thái giáo làm tôn giáo của mình, lấy dân tộc mẹ chồng làm dân tộc của mình. Bà thương yêu, tận tâm và trung thành với mẹ chồng dù trong hoàn cảnh đói rách khốn quẩn. Sách Rút phản ánh sự quan phòng của Thượng Đế không chỉ đối với một dân tộc được chọn của Giao ước nhưng đã chiếu cố nâng đỡ cả đến trường hợp của một người ngoại giáo, thấm nhuần tinh thần cứu độ (trường hợp Boaz đối với Ruth) của bác ái, bao dung và khuyến khích ý thức can đảm, chịu đựng trước hoàn cảnh vất vả, khó khăn của cuộc sống. 24 Tác phẩm này tuy ngắn nhưng cảm động, được đặt vào giữa sách Thủ lãnh và 1 Sa-mu-en theo truyền thống Thiên Chúa giáo trong khi nó lại được đứng đầu trong năm cuốn Megillot (Festival Scrolls) theo truyền thống Do Thái giáo đọc trong các dịp lễ nhất định: Diễm ca đọc dịp lễ Vượt Qua, Rút dịp lễ Ngũ Tuần, Ai ca ngày 9 tháng Áp, kỷ niệm đền thờ bị thiêu hủy; Giảng viên, dịp lễ Lều; và Ét-te, ngày lễ Pu-rim 25. Nguyễn Đức Cung CHÚ THÍCH: 1.- Howard F. Vos, New Illustrated Bible Manners &Customs, How the People of the Bible really lived, Thomas Nelson Publishers, Nashville, 1999, trang 15. 2.- Howard F. Vos, Sách đã dẫn, trang 15. 3.- Sáng Thế 37: 5-8; Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện, Kinh Thánh Trọn bộ Cựu Ước Và Tân Ước, Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1998, trang 88. 4.- Sáng thế 41:5-7; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 93. 5.- Sáng thế 42: 1-4; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 96. 6.- Lê-vi 2:14-16; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 182. 7.- Lê-vi 23: 9-13; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 219. 8.- Lê-vi 27: 16-17; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 230. 9.-Thủ lãnh 15: 1-8; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 438. 10.-Xuất hành 23:10-11; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 148. 11.- Lê-vi 19: 9-10; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 212. 12.- Reader’s digest, Great People of the Bible and how they lived, The Reader’s digest Association, Inc. 1974, trang 129. 13.- Lê-vi 27: 30-31; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 231. 14.- Theo sách Sáng thế, 19: 35-37 ông Lót sau khi được Thiên Chúa cứu thoát khỏi thành Xơ-đôm, trong cơn say rượu đã ăn nằm với hai cô con gái khiến hai cô này có thai. Cô chị sinh một con trai đặt tên Mô-áp, đó là ông tổ người Mô-áp ngày nay. Cô em cũng sinh một con trai đặt tên Ben Am-mi, đó là ông tổ người Am-mon ngày nay. 15.- Reader’s digest, Sđd, trang 126. 16.- Đệ nhị luật 25: 5-10; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 346. 17.- Rút 1: 15-17; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 451. 18.- Rút 2: 6-14; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 452. 19.- Cụm từ levirate marriage xuất phát từ chữ Levir (tiếng La-tinh có nghĩa là anh rể) nói về một tập tục của Do Thái trong thời cổ khi người anh chết, em trai có thể lấy chị dâu làm vợ. 20.- Rút 3: 8-13 ; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 454. 21.- Rút 4: 3-6; Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 454. 22.- NIV Archaeological Study Bible, An illustrated Walk through Biblical history and culture, Nhà xuất bản Zondervan, 2005, trang 392. 23.- Malachi Martin, King of Kings, Nhà xuất bản Simon and Schuster, New York, 1980, trang 21. Nguyễn Đức Cung, Câu chuyện tình báo đọc trong Cựu Ước, đăng trên các Website Khoa Học.Net, Thông Luận, Cựu Chủng Sinh Huế Hải Ngoại, Tuần báo Sài Gòn Nhỏ số 631 ngày 29-5-2009 và số 632 ngày 5-6-2009, Tập San Y Sĩ (Canada), số 182, tháng 7-2009. 24.- John Bowker, The complete Bible Handbook, an illustrated companion, Dk Publishing, Inc. 1998, trang 110. 25.- Nhóm phiên dịch, Sđd, trang 24. |