Một Thoáng Mơ Phai- Mỹ Nga

Một Thoáng Mơ Phai
Mỹ Nga
Có những kỷ niệm tưởng chừng như đã quên, sẽ không bao giờ trở lại, nhất là trở
lại trong một khung cảnh hoàn toàn xa lạ như xứ Đức nơi tôi đã đến cách đây 50
năm và ở lại cho đến bây giờ…. Thế mà, khi đọc câu chuyện Bình Đông Bình Tây
với cội Mai già, rồi hôm nay thêm câu chuyện “Khu Nancy ở Saigon” của anh
Nguyễn M. Nữu thì tâm hồn tôi đã bay bổng trở về với khung cảnh ngày xưa với
những hình ảnh không xa khu Nancy bao nhiêu – Đại lộ Cộng Hòa –
Tất cả như ….Rồi mùa xuân qua đây lạc loài, đường quen xưa bùi ngùi, một
thoáng mơ phai (“Một thoáng mơ phai” của Trần Thái Hòa).
Từ cư xá Chu Mạnh Trinh vùng Phú Nhuận, gia đình ba mẹ tôi dọn về Trung Tâm
Huấn Luyện Cảnh Sát Quốc gia ở đại lộ Cộng Hòa. Ngày ấy tôi mới bắt đầu vào
lớp 3 trường tiểu học Phan đình Phùng (đường Nguyễn Thiện Thuật, thuộc khu
Bàn Cờ).
Trung Tâm Huấn Luyện nằm đối diện với trường trung học Petrus Ký trên đại lộ
Cộng Hòa. Trung Tâm có những dãy cư xá dành cho học viên là các ông trưởng ty,
quận trưởng, đến tu nghiệp, tham dự khóa học, một câu lạc bộ có thể chứa đến hơn
200 người, một sân thể thao rất rộng có cả sân bóng chuyền và một xạ trường tập
bắn súng rất tân tiến dưới hầm, bên trên xạ trường là 2 sân đánh vũ cầu trong
nhà….. Ba tôi là người điều hành Trung Tâm và cũng là một giảng viên nên được
cấp nhà ở ngay trong khuôn viên của Trung Tâm.
Thuở ấy anh em chúng tôi chỉ biết có 2 nhà hàng xóm: nhà bác Mộc có 2 cô con
gái và nhà bác Khôi có 2 thằng con trai. Hai cô con gái nhà bác Mộc nhỏ tuổi hơn
nên hai chị em chỉ quanh quẩn trong nhà, ít khi ra sân chơi. Có lẽ 2 cô cũng sợ anh
em chúng tôi vì chỉ toàn là con trai. Phá làng phá xóm là bọn tôi gồm 2 cậu con trai
hàng xóm cộng với 6 anh em của tôi vị chi là 8. Là đứa con gái duy nhất trong bọn
nên tôi đánh đu theo những trò chơi của con trai.
Ngoài thời gian ở trường, về đến nhà, chúng tôi đem banh ra sân, chia làm 2 đội để
đá với nhau mà không cần có trọng tài. Chạy theo trái banh dưới trời nắng nổ đom
đóm mắt mà vẫn không dành được trái banh trong chân mấy thằng con trai, tôi
luôn tự hỏi “sao không lấy thêm vài trái banh vào sân để khỏi dành nhau”. Làm sao
tôi biết được là môn đá banh được cả thế giới yêu chuộng cũng chỉ vì 1 trái banh
mà 22 cầu thủ phải “dành” nhau trong mỗi trận đá là cả một tài nghệ, một kỹ thuật
ăn tiền, là thắng thua chỉ vì 1 trái banh. Đã chạy trối chết để dành trái banh, toát cả
mồ hôi, tóc tai tèm nhẹp, lại thêm bị cát nóng chà xát vào ống quyển, đau đến chảy
cả nước mắt mà cũng không rớ được tới trái banh đang được ông anh kềm trong
chân!! Con nít đá banh thì làm gì có giày có vớ nhà nghề như mấy cầu thủ mà chỉ
là những đôi chân trần của bầy nhóc tì, cho nên môn đá banh sớm bị tôi cho ra rìa,
không tham gia nữa.
Thiếu “cầu thủ” nên anh em tôi bày ra chơi tạt hình. Có được bao nhiêu tiền cắc
dành dụm, anh em tôi rủ nhau đi mua những xấp hình ở tiệm chạp phô trên đường
Lý Thái Tổ gần nhà. Tiệm nhỏ xíu nhưng mua gì cũng có. Mua mấy xấp hình về
rồi ngồi cắt thành từng tấm hình nhỏ. Mỗi lần chơi phải chồng 5-6 tấm của phần
mình, xong mỗi đứa cầm 1 chiếc dép, đứng lui ra sau cách chồng hình khoảng 5-6
thuớc. Từ đó phải tạt chiếc dép làm sao cho trúng chồng hình cao cao đặt trong
vòng tròn phía đằng trước. Hình tạt được bao nhiêu là thuộc về mình bấy nhiêu.
Chỉ vài lần tạt hình là biết ngay đứa nào giỏi đứa nào dở ngay. Thằng em kế của tôi
tạt hình rất thiện nghệ. Sau này tôi mới “ngộ” ra là nó ăn gian. Khi tạt, tôi hay đứng
thẳng đuột người, tạt chiếc dép ra đằng trước, phần lớn dĩ nhiên là tạt hụt, không
“ăn” được tấm hình nào. Còn nó thì vừa bước tới 1-2 bước vừa tạt, nên tạt lần nào
xấp hình cũng bay tung tóe… Môn này tôi cũng ô rờ voa, rút lui vì chỉ mất tiền vô
ích mà còn bị nó chọc quê “tạt gì mà dở ẹc!”.
Đến mùa mưa, cây cối cỏ sậy trong khuôn viên Trung Tâm mọc um tùm nên có rất
nhiều dế. Dế lửa, dế than, gáy vang trời khi tắt mặt trời… Lúc đó tôi chưa biết
phân biệt dế đực và dế mái. Cứ thấy con dế đang bò men theo vách tường là tóm
cổ, nhét vào chai sirô, không cần biết dế thuộc giới tính nào. Sau này khôn ra mới
biết là dế mái không bao giờ có vân trên cánh và dĩ nhiên là hiền khô, không biết
đá!!! Con dế đực nào có nhiều vân trên cánh là dế háo chiến, đá trăm trận trăm
thắng. Dế than màu đen và dế lửa màu nâu. Dế lửa đá “ngầu” hơn dế than v…v…
Trước khi đem dế ra đá phải cho dế ăn cỏ non, ăn xong phải làm cho nó say bằng
cách cho nó quay vù vù trong không khí. Dế quay tít nên bị chóng mặt, thả xuống
dế đi lảo đảo, nhào vô tấn công đối thủ ngay. Mà muốn cho dế quay thì phải dùng
một sợi tóc dài.Tóc thì mấy thằng con trai nhà tôi làm gì có, toàn húi cua. Thế là
mái tóc dài lúc nào cũng bù xù của tôi được trưng dụng tối đa: đứa giựt bên này,
đứa giựt bên kia. Hết chống đỡ chỉ còn nước la oai oái!! Ban đêm, đứa nào cũng
đem dế theo vào phòng ngủ, nhét dưới gối. Đêm khuya dế bắt đầu nỉ non, gáy vang
trời. Bọn con nít chúng tôi ngủ say làm sao biết được là mấy con dế thần sầu quỹ
khốc của chúng tôi đã làm phiền cha mẹ mình. Sáng hôm sau ngủ dậy mới biết là
những cái hộp đựng dế của chúng tôi đang nằm lăn lóc ngoài vườn, và mấy chiến
sĩ dế cũng đã tung cánh chim tìm về tổ ấm là các hang hóc đâu đó trong vườn. Thế
là hết mùa đá dế….
Trong 2 thằng hàng xóm của tôi có thằng em là thằng Phát, lâu lâu nó lại thích làm
dáng yểu điệu như thục nữ nên tôi cũng có “bạn gái”. Để làm con gái, Phát phải
nhặt các lọn gỗ bào khá dài quăn tít kẹp lên mái tóc ngắn ngủn của nó. Dạo đó hai
đứa tôi thích bắt chước hai cô ca sĩ Lệ Thanh và Thanh Thúy. Sân khấu của chúng
tôi là mái hiên của câu lạc bộ. Mỗi ca sĩ ôm một “Microphone” là chậu cây mai cao
ngang tầm chúng tôi. Lúc hát, hai ca sĩ làm bộ lấy tay hất “mái tóc” là những lọn
gỗ bào ra đằng sau, mắt thì liếc làm duyên với đám khán giả là bầy con trai ngồi
bên dưới…. Phát học trường Tây, đi học có xe Cyclo đưa đón. Tôi thì cuốc bộ đến
trường, đi chung với cậu em học sau tôi một lớp. Sáng ra chưa tỉnh ngủ, hai chị em
tôi ra đến bùng binh Cộng Hòa, ở đây rộng thoáng, gió các ngã đường thổi về, lạnh
đến co ro…. Hai chị em tôi có bữa phải ngồi thụp bên lề đường vì gió, rồi dựa lưng
nhau ….nhắm mắt ngủ một chặp, trước khi băng qua đường Phạm Biểu Chánh rồi
Hồng Thập Tự để sang bên kia bùng binh là đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi có
trường tiểu học Phan Đình Phùng của chúng tôi.
Ngoài những trận đá banh, chạy đua, tạt hình hay vật lộn chung với bọn con trai,
Phát và tôi rất “ghiền” chơi riêng với nhau, hết bày trò chơi này đến trò chơi khác
cho đến tối mịt mới chịu về nhà. Trò chơi mà hai đứa tôi thích nhất là làm “đậu đỏ
bánh lọt”: cạo phấn trắng hòa với nước lạnh vào chén để làm nước dừa, cắt dây
thung màu xanh lá cây ra từng khúc ngắn làm bánh lọt và dây thung màu đỏ làm
đậu đỏ. Trong khuôn viên Trung Tâm trồng rất nhiều cây trứng cá. Đến mùa trứng
cá chín, hai đứa tôi hái từng rổ trứng cá, bóp ra làm chè Kê….. Cho đến một ngày,
hình như là sinh nhật của tôi, Phát rủ tôi đi hái hoa ở công viên trước hội trường
lớn của Trung Tâm. Gió mát hây hây, mây trắng bay trên đầu, đang mải mẻ hái
hoa, bỗng dưng Phát quay nhìn tôi rồi nói “tụi mình giống vợ chồng ghê há!”.
Không hiểu sao, một cảm giác là lạ, rờn rợn chợt đến trong tôi. Cũng “thằng Phát”
của mọi ngày, sao bữa nay nó nói gì mà giống như người lớn! Từ đó tôi hay lãng
tránh Phát, không muốn chơi riêng với Phát nữa. Không có bạn gái, Phát mon men
làm quen với 2 cô con gái nhà bác Mộc. “Ghét” Phát ăn nói kỳ cục nhưng thấy
Phát có bạn mới, tôi lại tức, tức hay ….ghen?? Sau này gia đình tôi không còn ở
Trung Tâm nữa mà dọn về Trương Minh Ký. Trước ngày sang Đức, nghe mẹ tôi
kể là bác Khôi trai đã mất và Phát thì vào Biệt kích Dù của Mỹ….
Trường Petrus Ký nằm bên kia đường, đối diện với Trung Tâm Huấn Luyện. Hai
bên đại lộ ngày ấy có hai hàng cây Điệp và cây Phượng trồng xen kẽ. Hè đến, hoa
Điệp màu hồng và hoa Phượng màu đỏ nở rộ rất đẹp. Những trái Phượng dài dài
màu xanh, mọc chen lẫn trong đám hoa đỏ ối, hoạ hoằng lắm mới có trái chín khô
rơi nằm chỏng chơ trên mặt đất. Cây Điệp thấp hơn và trái Điệp cũng nhỏ hơn,
màu đen. Mùa hè trái Điệp thi nhau rụng đầy lề đường. Anh em tôi thường lượm
trái Điệp, đập ra lấy hột làm bi bắn ná….Mùa hè đến cũng là mùa thi tuyển vào đệ
thất của các nam sinh. Kết quả của cuộc thi tuyển thường được đọc qua
Microphone vang cả một khúc đường từ sáng cho đến trưa. Phụ huynh và các
tuyển sinh đứng chờ trước cửa từ sáng sớm để nghe kết quả. …. Hết phần xướng
danh, ngưòi thì mừng rỡ vui mừng vì trúng tuyển, kẻ thi rớt thì tiu nghỉu buồn xo,
tiếng xe gắn máy, tiếng cười nói….. Đại lộ Cộng Hòa ngày ấy không biết đã chứng
kiến bao lần cảnh vui mừng sung sướng hay đau khổ dở khóc dở cười của các cậu
học trò Saigon. Các anh em trai nhà tôi đều là học sinh của ngôi trường cổ kính
Petrus Ký.
Năm tôi thi vào đệ thất trường Trưng Vương là năm có trận lụt rất lớn ở miền Tây.
Bài luận văn thi tuyển năm đó có đề tài đại khái là “em nghĩ gì về nạn lũ lụt ở miền
Tây”. Con bé 10 tuổi đầu là tôi lúc đó chẳng nghĩ gì đến cảnh nhà trôi, đường lở,
cầu sập, người chết, đói khát ….mà chỉ “bận tâm” một điều duy nhất là lũ lụt như
thế này thì học trò làm sao đi thi đệ thất, giấy mực đâu mà thi? Thế là con bé hý
hoáy viết đến 2 trang giấy, chỉ lo suy nghĩ làm thế nào để mua giấy mực cho học
sinh để đi thi trong mùa lũ lụt. Bài luận của tôi nghe ông bác chấm thi kể lại được
tới …2 điểm. Kết quả dĩ nhiên là trợt vỏ chuối.
Để chờ kỳ thi đệ thất năm sau, tôi được gửi vào học bán trú trường Thánh Linh
trong khu Chợ Quán do các bà sơ điều hành – Học lớp Tiếp liên – Các sơ ở đây mặc
áo chùng đen và khăn lúp trên đầu cũng màu đen nhưng không nhớ hay không biết
các sơ thuộc dòng nào. Chỉ nhớ một điều là có Sơ Anna hiền dịu dạy làm luận văn,
sơ Therèse hay cười dạy may thêu và hát thánh ca. Nhưng nhớ nhất là sơ Anné, bà
sơ dạy Toán và dữ hơn bà chằng!!! Có một lần làm bài kiểm Toán, cả lớp chúng tôi
cọp dê nhau nên làm sai bét cả đám. Sơ Anné giận lắm, tuyên bố là trả tập vở lại,
không thèm chấm điểm. Cả lớp không ai dám nhúc nhích đến bàn của sơ để lấy tập
vở của mình về. Đứa này chờ đứa kia …. cho đến khi nguyên chồng vở Toán bị sơ
Anné quẳng xuống chuồng gà bên dưới. Lúc đó 3-4 đứa trong lớp mới dám chạy
xuống sân, nhặt lại mấy quyển vở toán đem lên, thì sơ chỉ lạnh lùng phán một câu
“vở dính đầy phân gà, mấy em đem về nhà chép lại vào quyển vở mới, tuần sau
nộp lại”. Lúc đó đã gần cuối năm học, vở chép cũng đã gần hết cuốn…. Ngồi chép
lại những bài toán từ đầu năm mà “hận” sơ Anné không bút nào tả xiết…. Có lẽ
đây là hình phạt nặng nhất trong cuộc đời đi học của tôi và có lẽ cũng nhờ đó mà
hè năm sau tôi thi đậu vào đệ thất Trưng Vương.
Năm tôi đậu vào đệ thất Trưng Vương cũng là năm đảo chính TT Ngô Đình Diệm.
Ngày khai giảng thì còn xa nhưng ở nhà không biết làm gì cho hết ngày nên tôi
thường đạp xe đạp lên trường TV để xem lại kết quả thi đậu của mình. Từ đường
Cộng Hòa, rẽ tay phải vào đường Hồng Thập Tự, cứ thế mà đạp cho tới gần sở thú
thì rẽ vào Nguyễn Bỉnh Khiêm là đến. Ngôi trường TV lúc đó vẫn còn rất xa lạ với
tôi. Tên học sinh trúng tuyển được niêm yết trong một lồng kính treo trên tường.
Tên tôi trên bảng niêm yết vẫn nằm nguyên ở vị trí cũ, số 17, chẳng có gì thay đổi,
nhưng sao lần nào nhìn thấy tên mình, lòng tôi cũng rộn ràng xôn xao khó tả. Ngày
nhập học vào đệ thất năm đó cứ bị hoãn đi hoãn lại. Tôi lại lấy cớ đi xem thông cáo
về ngày khai giảng, lại hùng hục đạp lên trường rồi đạp về ….Năm ấy, mãi đến gần
cuối tháng 11 năm 1963, tôi mới được bước chân vào ngôi trường của một thời áo
trắng Trưng Vương.
Sau này, khi đã trở thành cô thiếu nữ dậy thì, mỗi lần chạy ngang Trung Tâm Huấn
Luyện trên đường Cộng Hòa, tôi không khỏi bùi ngùi nhớ lại cả một quãng thời
thơ ấu của mình…..
Dạo đó tôi thường đến đại học sư phạm trên đường Nguyễn Trải để chơi vũ cầu.
Các anh chị trong hội ai cũng là sinh viên hoặc đã đi làm việc sau khi xong đại
học. Tôi là con bé duy nhất còn ở bậc cuối trung học. Chơi vũ cầu xong mọi người
thường kéo nhau đi ăn đậu đỏ bánh lọt ở Khu Nguyễn Thiện Thuật. Là cô em nhỏ
nhít trong hội nên tôi luôn được các anh hoặc các chị thay nhau bao ly chè. Một
hôm, đang vui vẻ ăn ly chè sâm bổ lượng thì một bà chị, lúc đó chị đã là giáo sư
trường Gia Long, báo tin Phiên, cũng là hội viên của hội vũ cầu, sắp lấy vợ, hỏi tôi
có biết chưa. Nghe chị hỏi mà tôi tưởng mình nghe lầm nhưng vẫn cố làm tỉnh để
trả lời “dạ, em biết rồi!”.
Phiên là sinh viên Kiến trúc năm thứ hai, sinh hoạt trong ca đoàn “Gió Khơi” (ca
đoàn áo nâu của Lê văn Khoa). Mỗi lần ca đoàn trình diễn ở Quốc gia âm nhạc tôi
luôn được Phiên mời đi nghe chàng hát. Sinh nhật 17 tuổi của tôi Phiên đến dự với
bức tượng “Manneken Pis” bằng thạch cao. Những buổi tối chơi vũ cầu đánh đôi
chung với Phiên, Phiên bao sân bên dưới, tôi ôm lưới đứng trên chờ những trái bỏ
nhỏ của bên đối thủ…. Đôi khi lỡ bộ, chạy không kịp, ngó lui ra đằng sau cầu cứu
Phiên. Bốn mắt cứ giao nhau như thế này thì thua là cái chắc!!! Phiên hay đến nhà
tôi, lấy cớ là “kèm toán” cho bạn. Một lần Phiên rủ tôi đi nghe nhạc ở “Đêm Màu
Hồng”. Đang lo không biết phải xin phép ba mẹ như thế nào để đi chơi với chàng
thì may thay có ông anh họ là sĩ quan Hải quân đóng ở Nha Trang về phép ghé
thăm. Thế là lấy cớ “tháp tùng” theo ông anh, tôi hẹn với Phiên ở Đêm Màu Hồng.
Không khí Đêm Màu Hồng tối hôm đó thật là ấm cúng dễ thương, dạo đó ban
Thăng Long chuyên trình diễn ở đây. Tiếng hát của Hoài Trung, Thái Thanh như
quyện lấy cả không gian tràn ngập khói thuốc. Đây là lần đầu tiên tôi biết đến
không khí phòng trà. Ra về, chia tay nhau trước cửa ĐMH, tiếng xe, tiếng cười nói
xôn xao nhưng vẫn không át được tiếng đại bác xa xa vọng về….
Thế rồi, đùng một cái, chẳng hiểu sao, Phiên bỏ đi lấy vợ!! Nghe tin mà tê tái cả
lòng. Tự ái, tôi đem bức tượng “Manneken Pis” đến nhà trả lại cho chàng. Món quà
duy nhất Phiên tặng cho tôi, Ngày đám cưới của Phiên tôi xách xe Honda đến hồ
tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hồ tắm NBK một ngày mưa.