NGUYỄN THẾ GIÁC

Vài Nét Đặc Thù Của Tác Giả:
Nguyễn Thế Giác được sinh ra trên đất dụng võ của Nhà Nguyễn Tây Sơn
Tuổi Thiên Xứng
Thưở nhỏ học trường làng
Laớn lê học trường Đạo
Đến Thủ Đô học trường Đời
Khi khói lửa ngút trời vào trường Lính
Cuối cùng
Định mệnh khắc khe cho một dân tộc kiêu hùng
Có thưa bản lãnh
Chàng trai trẻ ấy
Rồi cũng tuý ngọa sa trường
Bị thương với cấp độ tàn phế vĩnh viễn
Lục lại trong ngăn kéo ký ức
Được mấy Huy Chương
Dăm bằng Tưởng Lục
Gọi là trả nợ tang bồng hồ thỉ
Tưởng chừng,cũng thỏa chí bình sinh!
Tác phẩm đã xuất bản:
1. Giọt Nước Mắt Cho Quê Hương(Thơ)
2. Trên Đỉnh Buồn Mùa Đông(Thơ)
3. Tâm Sự Một Giòng Sông(Thơ)
4. Bão Tình(Truyện Dài Tình cảm Xã Hội)
5. Trên Lưng Trường Sơn.
6. Buồn Lê Mấy Đốt Ngón Tay(Thơ)
7. Tuyển Tập Truyện Ngắn( Cơn Đau Gối Đầu 2 Thế Kỷ)
8. Ba Mươi Năm Mùa Xuân Trên Lưng Người Tị Nạn(Thơ)

Đnh Mnh
Không muốn khóc vì làm người: phải khóc!
Tắt nụ cười từ thuở giặc vào Nam.
Con phố bấy giờ đìu hiu tang tóc.
Xứ Thành Đồng chẳng còn bóng danh lam.
Ngôi trường cũ lũ học trò đâu mất.
Hàng phượng già quên trổ nụ. Hè sang!
Cả Dân Tộc đã đổi nghề hành khất.
Kiếp Thầy Cô đành chịu kiếp cơ hàn.
Căn nhà xưa nay thuộc về Chính Phủ.
Đuổi Ngụy vào vùng kinh tế khẩn trưng.
Chồng cải tạo từ ngày cờ đổi chủ.
Vợ ở nhà gắng buột bụng… thắt lưng…!
Con mấy đứa giờ thiếu ăn thiếu mặc.
Sống nhọc nhằn bới mảnh đất Thượng Du.
Mẹ cắc… củm góp từng đồng bòn nhắc.
Năm hai lần ra xứ Lạng thăm tù.
Hoàng Liên Sơn ngày dài mưa mưa ray ráy.
Cơn rét trái mùa trút lạnh miền xuôi.
Thương thiếu phụ đứng nhìn rừng Yên Báy.
Ôm xót xa giấu tiếng nấc ngậm ngùi.
Nàng ngã qụy bên đường chiều lẻ bóng.
Mắt nhắm nghiền mơ dáng Lính ngày xưa.
Ai chứng kiến không mủi lòng cảm động.
Trời rưng rưng… rồi giáng xuống cơn mưa.
Thế là hết! Nàng làm tròn lời hứa.
Chết theo người Lính chiến của Miền Nam.
Như dũng sĩ dù mịt mù khói lửa.
Quyết không hề để tim óc nhúng chàm.
Mấy đứa con chờ Mẹ về mỏi mắt.
Ngày lại ngày năm… tháng… cứ vụt xa.
Bồng bế nhau lên tàu ra Đất Bắc.
Thay Mẹ hiền làm nhiệm vụ thăm Cha.
Tên Quản Giáo cười hả hê thù hận:
Bố Mẹ mày đã đền tội Nhân Dân.
Chết chưa đủ vẫn còn tanh lòng đất.
Thì chúng bay phải gánh lấy nợ nần.
Ba anh em dìu nhau lên Hà Nội.
Đón chuyến tàu Thống Nhất đến Sài Gòn.
Phu soát vé hằn học từng lời nói…
Xuống Wagon giành cho lũ Ngụỵ con.
Cách Mạng vào xã hội thêm lầy lội.
Chú Mán về thành vỗ ngực xưng tên.
Trường không dạy chỉ thấy toàn khám tối.
Tuổi trẻ bấy giờ đã bị bỏ quên.
Tư Bản Đỏ lộng hành hơn phù thủy.
Biến Việt Nam thành một nước ăn mày.
Bao con gái cuối cùng đi đánh đĩ.
Bán tiết trinh cho ngoại quốc vui say.
Trong đó có đứa con người Lính Chiến.
Ai đẩy đưa vào định mệnh khắc khe.
Tuổi đôi tám vừa bán trôn nuôi miệng.
Vừa chắt chiu làm phần mộ Thầy Me.
Không muốn khóc vì làm người: bật khóc!
Đau thương này lịch sử biết cho chăng?
Cuối thế kỷ dân Việt còn lăn lóc.
Tìm Tự Do, Dân Chủ với Công Bằng



Nguyễn Thế Giác

Văn Bút Việt Nam Hành Khúc – Nguyễn Thế Giác – Mũ Nâu 11
Bài Xướng
 
XUÂN  MƠ
 
Tết nhứt nhà ai cũng rộn ràng
Xuân về chan chứa ánh thiều quang
Lá hoa chen chúc khoe màu thắm
Ong bướm xôn xao lượn sắc vàng
Dân tộc hân hoan mừng Tết đến
Quê hương nhộn nhịp đón Xuân sang
Xuân mơ nước Việt giàu no ấm
Hạnh phúc dân vui sướng ngập tràn
 
ĐẶNG ĐỨC BÍCH
 Bài Họa
TẾT  VIỆT
 
Tết Việt ngàn xưa vẫn rộn ràng
Trăm hoa rực rỡ ánh dương quang
Nhìn cô hàng xóm môi xinh thắm
Ngắm áng mây trời nét ửng vàng
Từ lúc quê hương vần vũ đến
Là khi đất mẹ bảo bùng sang
Ước mơ dân tộc mình tiến mãi
Toàn cõi giang sơn hạnh phúc tràn
 
NGUYỄN THẾ GIÁC
Vọng Về Ải Nam Quan
Tác giả: Nguyễn Thế Giác
Ngày xa xưa ấy
còn là chú học trò tấm bé
tôi muốn được nghe về đất nước mình
thầy giáo già nghiêm nghị
giọng phân minh
vuốt mái tóc
tận tình giở từng trang sử ký
thầy tôi nói
giang sơn đó
quê hương mình bình dị
dân tộc mình chung thủy với non sông
đã bao phen làm rạng rỡ giống Lạc Hồng
một chữ S ôm biển Ðông dậy sóng
heo hút từ ải Nam Quan
cúi nhìn mũi Cà Mau
xứ phèn chua nước đọng
dải đất khiêm nhường lồng lộng Thái Bình Dương
công khó người xưa
xẻ núi
mở đường
ươm nước mắt cho tươi mầu Tổ Quốc
sung sướng quá
tôi ngủ gà…ngủ gật
bừng tỉnh dậy
nghe người ta chia đất
cắt quê hương triều cống lũ quan thầy
bọn Thái Thú thời nay
bày vẽ chuyện thơ ngây
đau chữ nghĩa dưới gót giày vong bản
thế là ải Nam Quan chôn vùi theo năm … tháng
biết tìm đâu tấc đất để cao rao
tôi bất bình sau một giấc chiêm bao
là ác mộng trở về trên cố quốc
rồi cũng có một ngày
sẽ phơi bày sự thật
dù sự thật đau lòng
thắp vội nén hương
gọi anh hồn Nguyễn Trải vái vong
về chứng giám những người con hiếu thảo
tuy bỏ nước
nhưng tâm hồn đầy lương hảo
vẫn chắt chiu hòn đất của tiền nhân
muốn trở về vùng lãnh hải rửa chân
nghe lưu lượng thuỷ triều
dâng lên nỗi niềm tâm sự
và chiêm nghiệm những chuỗi dài quá khứ
từng xông pha
canh biển
giữ rừng
chắc bây giờ Ðại Ðế khóc rưng rưng
giặc mai phục trên núi đồi Việt Bắc
Tôn Sĩ Nghị
Hay hồn ma Sầm Nghi Ðống
về Lạng Sơn rồi chắc
nhà Nguyễn lưu danh hậu duệ kiên cường
sẽ đưa bầy Bắc Bộ Phủ ma vương
ra ánh sáng công lý
giữa pháp trường
toàn dân mình trị tội
để những con tim giống da vàng
lưu vong hải ngoại
muôn đời nhịp đập Việt Nam
giữ tấm bản đồ hình chữ S lộng danh lam
trao thế hệ tương lai vẹn toàn lãnh thổ.


Nguyễn Thế Giác
Tìm Về Xuất Xứ
 
Loài cá Hồi vẫn còn nhớ nguồn cội.
Hằng năm về thống hối với giống nòi.
Nhìn lại chân dung mình.
Gục mặt… xấu hổ càng trách đến tôi.
Cái tôi thật đáng ghét!
Thua đàn cá Hồi.
Mỗi năm tìm đến quê hương xưa đẻ trứng.
Môi trường sống đã làm nên hội chứng.
Còn loài người dàn dựng những nhiêu khê.
Cá Hồi vẫn khát khao tìm giòng nước ngọt quay về.
Bên nhánh suối, bờ sông bầy gấu rừng chờ xé xác.
Nhưng cá Hồi dễ gì quên quên ủy thác.
Sinh mệnh mình vào nanh vuốt loài gấu đói sau mùa Đông.
Trứng cá Hồi là thực phẩm loài chim biển chờ mong.
Xương cá Hồi đầy chất đạm, nuôi rừng phong Bắc Mỹ.
Tôi giã từ quê hương.
Từ đó đến nay lúc nào vẫn suy nghĩ.
Mượn linh hồn cá Hồi chung thủy một ngày mai
Bằng hy sinh để có cả tương lai.
Nhưng vô vọng trong hình hài mục rữa.
Ôn dĩ vãng thành bài học thương đau,
Người thợ rừng chưa đốt thành ngọn lửa.
Lửa phục thù mong nối chí ông cha.
Khi ra đi, ăm ắp tâm hồn người Việt Quốc Gia.
Sẽ đem hạt giống đấu tranh,
Dù trầm kha cũng cố gắng vào Quốc Nội.
Đuổi loài thú rừng lên Cao Nguyên
Cho chúng chiêm nghiệm ngày đền tội.
Hiện nguyên hình loài ác quỷ, thống hối với quốc dân.
Quay trở về hang Pắc Pó.
Nơi ông Hồ ngày xưa gian dối biết bao lần.
Thề Độc Lập, Tự Do, vẹn toàn lânh thổ.
Sao ủy thác Phạm Văn Đồng nhượng bộ.
Quên bẵng Anh Hùng, Liệt Sĩ gian khổ biết bao phen.
Nếu cây rừng biết nói tiếng hèn.
Rừng Trường Sơn sẽ không còn mầu diệp lục.
Sâu thăm thẳm nơi chín tầng địa ngục.
Quỷ đỏ chờ luận tội đầu thai.
Lũ cướp ngày khoe mẽ hình hài.
Vơ chuyến chót dù quan tài mở nắp.
Bên này địa cầu dư biết phường trộm cắp.
Đục khoét lần hồi tài sản Quốc Gia.
Tiếng thất thanh của người yêu nước,
Cùng đau nhói cõi sơn hà.
Nhưng ý chí thua xa lũ cá Hồi.
Chúng vượt qua ngàn khổ ải.
Ngót nửa thế kỷ âm thầm…
Cả dân tộc chịu ngàn oan trái
Thềm lục địa băng hoại bỡi giặc Tàu.
Gió đại dương lồng lộng nỗi thương đau.
Nhìn hiện tại,
Giờ mới hiểu lực bất tòng tâm.
Làm cẩm nang thống thiết gối đầu.
Không biết ngày nào được vẫy vùng Đông Hải
Để lũ cá Hồi hiện nguyên hình trở lại.
Thực tập bài học truyền thống giống nòi.
Việt Nam, Việt Nam ơi!
Hồn thiêng sông núi muôn đời khắc ghi.

Nguyễn Thế Giác
My chc Mùa Xuân .. trên lưng Người T Nn

(mười bài Đường Luật liên hoàn)
Đốt nén trầm hương dạo tiếng tơ.
Nàng Xuân len lén tự bao giờ.
Mai vươn gác vắng đài mây mẩy.
Đào lả thềm hoang nụ lẳng lơ.
Khai bút vờn hoa hồn rạo rực.
Động tình lộng gió ý vu vơ.
Nhớ về Đất Mẹ sao buồn quá!
Vò võ lòng đơn sống vật vờ.


                      ⁜⁜⁜


Sống vật vờ theo vận nước trôi.
Tuy rằng một giải hết phân đôi.
Dòng sông Bến Hải ai chia cắt?
Thửa ruộng Miền Nam kẻ đắp bồi.
Đếm mấy Mùa Xuân tìm đất Hứa.
Là bao cái Tết bỏ quê tôi.
Ngồi đong nước mắt nuôi hờn tủi.
Ngun ngút niềm đau ngập núi đồi.


                      ⁜⁜⁜


Ngập núi đồi úa mầu tóc tang.
Lòng người Hải Ngoại vọng quan san.
Mơ bầy én liệng nên thao thức.
Nhìn lá cờ bay luống ngỡ ngàng.
Mỏi cánh chim bằng xao xuyến nhớ.
Chĩu lòng dân tộc ngậm ngùi than.
Mấy mươi năm gặm mòn thương tiếc.
Vết chém da non kéo vội vàng.

                      ⁜⁜⁜


Da kéo vội vàng hồn đỏ tươi.
Ngày Xuân không trổ nụ hoa đời.
Tương tư cũng chỉ mong đoàn tụ.
Lưu luyến càng thêm thấy hổ ngươi.
Mang giống Rồng Tiên vùi đất khách.
Đội vầng Nhật Nguyệt dạt quê người.
Vui gì dân Việt chia hai mảnh.
Từ thuở ly hương tắt nụ cười.

                      ⁜⁜⁜


Tắt nụ cười Xuân chắp cánh bay.
Hỏi người Quốc Nội có ai hay?
Thiết tha cuối phố chiều hong nắng.
Ngớ ngẩn đầu non nghé lạc bầy.
Đắp đổi qua ngày đời đạm bạc.
Chắt chiu từng chút thuở thơ ngây.
Người đi chẳng ngại ngùng sương gió.
Sợ bóng thời gian nhẵn gót giày.

                      ⁜⁜⁜


Nhẵn gót giày… thèm tiết mẹ ru.
Nhìn quê chất ngất núi sương mù
Ca Dao ấm gọng mòn thương nhớ.
Tục Ngữ nồng câu xoá hận thù.
Bên dãy Hoành Sơn đời vạn hạnh.
Cạnh đường Xích Đạo sống thiên thu.
Nơi đâu vẫn nhớ Mùa Xuân Việt.
Bàng bạc trên từng bước lãng du.

                      ⁜⁜⁜


Bước lãng du thèn thẹn cõi lòng.
Xuân về e ấp ngọn Đông Phong.
Con tim chan chứa hồn Do Thái.
Gương mặt ưu tư gống Lạc Hồng.
Lặng lẽ mỗi chiều mơ đất nước.
Âm thầm từng phút vọng non sông.
E đôi cánh mỏng trời giông gió.
Muốn vượt đại dương luống phập phồng.

                      ⁜⁜⁜


Luống phập phồng cho đất nước tôi.
Mới vừa chập chững bỏ Thôi Nôi.
Chấn thương nội chiến đau âm ỉ.
Ác mộng ngoại xâm sợ vãn hồi.
Trông thấy Hoà Bình Dân Chủ đó.
Ước mong Hạnh Phúc Tự Do thôi!
Để nghe Xuân chảy trong lòng đất.
Được ngắm cành mai cũng đủ rồi.

                      ⁜⁜⁜


Cũng đủ rồi một kiếp bại vong.
Mỗi mùa Xuân đến lạnh cô phòng.
Lùa trăng đất Việt vào chăn gối.
Ngắm áng mây trời qua chấn song.
Tìm mãi ông đồ sao chẳng thấy?
Viết hoài câu đối cũng không xong.
Cây Nêu chưa dựng đêm Trừ Tịch.
Tắm bóng hoàng hôn luống chạnh lòng.

                      ⁜⁜⁜


Luống chạnh lòng về với cố hương.
Sá gì Khanh Bá mộng Đồ Vương.
Chỉ mong góp sức gầy Quê Mẹ.
Cũng muốn lê chân dạo phố phường.
Ôm dáng Sài gòn chiều xế bóng.
Gội dòng sông Cửu sáng tinh sương.
Trời ơi! Tôi nhớ từng viên sỏi.
Ký ức còn in đậm nẻo đường.



Nguyễn Thế Giác
Bình Định quê hương tôi
Khánh Ly (Nhạc sĩ Xuân Điềm, thơ Nguyễn Thế Giác)
Trinh sát 40 trấn nhậm Bồng sơn – Nguyễn Thế Giác
Chân Dung Người Lính Nguyễn Thế Giác
Hai Vai Nặng Gánh
Nước Nhà Ngửa Nghiêng


 
Từ anh cúi mặt rưng rưng.
Cảm người Lính trận lẫy lừng xông pha.
Làm trai giềng mối Quốc Gia.
Hai vai nặng gánh nước nhà ngửa nghiêng.
Chẳng nghe nửa tiếng lụy phiền.
Không hề chùn bước mọi miền hành quân.
Chiến trường nào thiếu gót chân.
Lên non… xuống biển… vạn lần gieo neo.
Tủi thân ngựa qụy chân đèo.
Tiếc thương vó ký nương theo bóng cờ.
Anh đi ngày ấy đến giờ.
Người ưu tư cũng bất ngờ! Vì đâu?
 
Nguyễn Thế Giác
Ngoái Nhìn Tổ Quốc
 
Ngót nửa thế kỷ tôi rời xa Tổ Quốc.
Nhìn qua thân phận mình.
Còn thua lũ cá Hồi quyết một còn một mất. 
Hằng năm thần tốc tìm lại bến sông xưa.
Tôi tuổi tám mươi,
Tuy ý chí và dũng cảm có thừa.
Nhưng vòng tay bé nhỏ.
Phần vết thương năm nào vẫn còn hoen máu đỏ.
Đưa mắt nhìn chữ S thân yêu.
Rừng Trường Sơn đầy dẫy bọn Hoa Kiều.
Ra sức xới đào quặng mỏ.
Xa biên giới trớ trêu thay!
Loài cửu vạn đội lốt ăn mày,
Là cả một lũ cường sơn thảo khấu.
Trong lòng dân tộc bọn Việt Gian tạo thành khúc hoà tấu.
Hát bản: … Núi Liền Núi Sông Liền Sông…!
Cán ngố vào Nam đục khoét đê điều,
Phả lấp cống rãnh.
Làm dãy chết một cánh đồng.
Chủ đất Miền Tây Nam Phần.
Ngưởng cổ kêu trời không thấu.
Nhìn hút mắt cò bay thẳng cánh bức tranh vân cẩu!
Tóc mạ non đánh dấu mầu ố lục.
Từ đó đến nay…
Biển mặn thâp thò bò lên sông Sài Gòn liên tục.
Ngày một… ngày hai… mất phù sa nước dục,
Tang thương ơi! Nhung nhúc ập đến cận kề.
Thế là cơn mê sảng hẳn không xa lắm!
Nước ngọt sẽ chẳng đủ cho đàn trẻ thơ bơi tắm
Thì làm sao nuôi ruộng lúa Việt Nam?
Bẻ rừng tràm chưa nung hết bọn gian tham.
Quan Thái Thú đầu triều đỡ đầu rặc ông to bà lớn.
Hạ tầng cơ sở lũ chăn trâu nhún nhởn.
Đeo súng dài súng ngắn mặt mày hung tợn.
Tối ngày hất hàm hăm doạ người dân.
Mấy triệu Đảng Viên toàn một khối ngu đần.
Mua bằng cấp mong thăng quan tiền chức.
Tiến Sĩ Cử Nhân của người ta một trời một vực.
Nặn óc tìm bằng sáng chế, phát minh…!
Sĩ Tử nhà mình bày vẽ lo lót, cười ruồi…
Gái: Đem cái ngàn vàng biếu xén triều đình.
Trai: Còn may nhiẽu thụng, khăn the, quần là áo lượt.
Cho dân đen mừng thọ chúc phước…
Cậu Ấm, Cô Chiêu, Thái Tử Đảng.
Ngày một vinh thân phì gia.
Lần hồi theo năm tháng…
Được Bộ này Bộ nọ cất nhắc tiến tới cõi Đại Đồng.
Những con nhộng trong cái kén cài đặt khắp non sông.
Chờ một ngày nở ra trở thành cánh bướm.
Rồi cũng giống mẹ cha.
Khắp truông sâu, hẻm nhỏ vỗ cánh bay lượn.
Tìm hoa hút mật, cho đến khi cạn kiệt giống da vàng.
Tưởng được gì?
Khệ nệ hai chữ Vinh Quang đi triều cống.
Chờ Thiên Triều đại Hán ban nào áo mão, cân đai, cờ lộng…
Làm thành hào quanq Nô Lệ Mới, hôm nay.
Lau nước mắt, buồn thân phận lưu đày.
Đứng vòng tay kính cẩn gọi thầm Tổ Quốc,
Úp mặt khóc nhìn mảnh đời tàn khốc.
Dân tộc mình theo cơn lốc trái mùa.
Khó lòng thấy được một mùa mưa hy vọng.
Đảo đã mất từ ngày bọn răng đen mã tấu chưa Giải Phóng.
Phố tuy còn,
Nhưng vỏn vẹn cái xác không hồn.
Mẹ Việt Nam chỉ là nhục thể chưa chôn.
Nằm rục rữa chờ cháu con bên này chạy đôn chạy đáo.
Đồng Dollars mang về…
Rồi cũng rơi vào tay Lãnh Đạo.
Mấy chục tỉ mỗi năm.
Cho chúng xây nhà cao, siêu xe, biệt thự.
Cứ thế rút ruột tơ tằm.
Còn nhoẻn miệng ban mấy chữ: Núm Nhau Nghìn Dặm!
Thế mà cũng có những thằng bán linh hồn ước mơ say đắm.
Vác xác về làm con vật tế thần,
Cuối cùng rồi cũng được Nhà Nước Bắc Bộ Phủ tri ân.
Bằng lưỡi hái búa liềm bên bàn hương áng.
Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.
Bọn Công An lăm le dùi cui, ma trắc, súng đạn.
Hòn chì lên nòng chờ pháo lệnh truy hoan.
Ai chết mặc ai.
Miễn chúng nó sống còn.
Là Giải Phóng đã hoàn thành sứ mệnh.
Tôi khóc thét…!
Thế hệ này sao thanh thiếu niên đành câm miệng hến?
Cúi đầu chờ máy chém đi qua.
Ngước mặt lên đi!
Nghe tiếng nói ông cha.
Nhục quốc thể khi sơn hà vào tay bọn cù bơ cù bấc
Ngàn năm trước tổ tiên mình nằm gai nếm mật.
Vót tầm vông giữ làng, giữ đất.
Bạch Đằng Giang cắm cọc chờ nước ròng,
Lý Tướng Công lẫm liệt oai phong,
Đọc lời hịch:
Nam quốc sơn hà nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm.
Nhữ đằng hành khang thủ bại hư.
 
Nguyễn Thế Giác
Nguyễn Thế Giác
Mua Lấy Chữ Nghĩa Thánh Hiền – Nguyễn Thế Giác

Tôi cố gắng hết sức, mò mẫm đi qua vùng ruộng rộc (ruộng dưới miền đất thấp) cả chiều dài miền hạ bạn, vừa sông ngòi chằng chịt, vừa bờ đê ngăn nước mặn và biết bao con đập có bờ kè cao chất ngất rộng mưa nguồn, của một miệt quê hẻo lánh, phần thì không ngớt ve vuốt, nâng niu chìu chuộng con ngựa sắt, vì vốn dĩ người chủ trẻ măng của nó, cũng đã từng ngao du sơn thủy, thường xuyên trên lưng loài kỳ mã này, cho nên dù muốn dù không, cũng cảm thông đến con Xích Thố kiệt xuất của giống dân Âu Tây biến chế đầu tiên, cho các Quốc Gia trên thế giới làm phương tiện giao thông, sau kỷ nghệ xe hơi, tàu biển, ca nô.
Người xưa thường ví von:
– Đường dài biết sức ngựa! (trường đồ tri mã lực).
Bởi thế, tôi thầm thương và qúy mến con ngựa ấy vô cùng, lúc thì kè nó theo sát bên cạnh, chốc chốc lại còn vui vẻ cõng trên đôi vai, thủ thỉ lời trần tình chí cốt, cùng một khối kim loại kồng kềnh, gồng mình cố quên đi nặng nhọc, miệt mài lội qua mấy con sông cạn và những cánh đồng cỏ Năng hoang dã từ lâu đời, mọc phủ bờ dày đặc, thành một vùng không thể canh tác được, chạy dài hun hút tận cuối chân đê, có đoạn nước lúp xúp, cỏ Bồng trôi lơ lửng, như hăm hở chào đón bước chân người, cho dù thời ấy vẫn còn trai trẻ với thân hình vạm vỡ, nhưng đôi chân thiếu điều cũng muốn dại hẳn ra.
Ông Cha mình lúc nào cũng tò ra thâm thúy trong những lúc so sánh:
…Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu!
Sức Hạng Mã đâu không thấy, nhưng đổ hào quang đôm đốm, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thế mà lặn lội gần nửa ngày, nhìn lại mới chỉ tới được Triêm Ân Lạc Điền, vùng ven biên của chợ Vạn Gò Bồi, còn hai phần ba đoạn đường nữa, mới đến Thị Trấn Qui Nhơn, nơi mà Thầy Mẹ tôi đã đóng tiền nội trú, muốn cho cậu con trai được lột xác trưởng thành, học hỏi những điều mới lạ, trau dồi kiến thức của người thành phố, nếu may mắn hơn, sẽ có nhiều cơ hội tiếp nhận được những gì mới mẻ từ các Quốc Gia lân bang, du nhập vào đất nước kém mở mang, nhất là khoa học kỹ thuật, đang là chìa khóa lần dò mở tung những cánh cửa bí mật trên hoàn cầu, cho nhân loại chút hào quang tối thiểu của vũ trụ.
Thời ấy, muốn về Tinh gặt hái thêm chữ nghĩa, cầu cạnh tương lai sáng lạng, Cha Mẹ phải có tư tưởng rộng mở và thái độ dứt khoát, cho con cái ra khỏi cái quỹ đạo quê mùa, mới mong những người trẻ nhận được chút ánh sáng văn minh, từ thế giới phổ cập vào những quê hương lạc hậu.
Ca Dao Việt Nam có câu thật nồng nàn, đã lưu truyền trong dân gian, không biết từ thời nào, nhưng mãi đến nay, vẫn còn truyền khẩu và tưởng chừng là kim chi Nam, cho các nhà hàng hải muốn vượt đại dương:
Không đi khắp bốn phương trời.
Ở nhà với Mẹ biết đời nào khôn.
Chấp nhận để con cái khăn gói lều chõng ra đi, là cả công trình dự định kiến trúc qui mô, một lâu đài hạnh phúc cho thế hệ tương lai, vừa chắt chiu đối với Thầy Mẹ, vừa mong sao người trẻ quyết chí khắc phục, cả hai như mẫu địa bàn, sẵn sàng hướng dẫn một hướng đi đúng, cho người sử dụng. Đạo cha mẹ lại có trách nhiệm nhiều hơn, nhất là quan tâm đến người trẻ còn nặng nợ bút nghiên, đèn sách, ăm ắp kỳ vọng vào một ngày mai, cho mạch đời con cái mình vươn lên, để cuộc sống có nhiều ý nghĩa, những thầm mơ một tân khoa về làng tràn trề hy vọng, lúc nào cũng được vực dậy từ tâm tư cầu tiến thầm kín.
Cũng vì gia phả từ xưa có một học vị khả dĩ với đời, cho nên các đấng sinh thành nào lại không hãnh diện, cố cáng đáng công việc nhà, dành dụm chút ít tiền bạc, bằng mọi cách khả thi, nhồi nhét ý tưởng tìm Thầy, mua lấy chữ nghĩa thánh hiền, ưu tiên về nhu cầu sở học, đối với con cái mình.
Tuy rằng, thừa hiểu gia cảnh không mấy khả quan đi nữa, thậm chí có gia đình ước mơ những người trẻ thành đạt trên con đường công danh và sự nghiệp, đã không quản ngại gì đến mồ hôi nước mắt. dù phải đi ở đợ, nhẫn nhục khép mình của một con sen hoặc đưa thân làm tên đầy tớ hèn mọn, cùng lắm chịu cảnh tá điền, cung phụng cho một chủ nhân ông, miễn sao nhận được tí tiền còm, mớm sú cho con ăn học, trong thâm tâm chỉ mong ngày trông đêm đợi, con cái khỏi phải lo lắng, yên chí dùi mài kinh sử, nuôi dưỡng ý tưởng mở mang trí tuệ, để sau này trở thành hiền nhân quân tử là đủ rồi.
Thời ấy, chính ngoài xã hội không ngớt ra rả đánh giá: Sĩ, Nông, Công, Thương, mà kẻ sĩ còn ở trong ngôi vị và hấp lực tuyệt đối, làm mực thước cho sự thăng tiến, cho nên con người chẳng ngừng nuôi lấy hoài bảo khiêm nhường trì chí mua lấy chữ nghĩa lập thân, để được:
… Rồi sẽ có một ngày bảng vàng bia đá!
Thú thật, đi học ở tỉnh thành xa xôi, tôi chẳng hề vui thú gì lắm, vì lúc nào cũng ám ảnh nỗi khó khăn, cật lực của thân bằng quyến thuộc, chắc chắn không thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn, quanh năm suốt tháng chống chọi với thiên nhiên, nơm nớp cùng đói nghèo bệnh tật, như một hệ lụy canh cánh bên người:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu.
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Đi học xa vừa không muốn chỉ vì quyền lợi riêng tư của chính mình, mà làm nặng gánh cho cả gia đình, nhất là Cha Mẹ ngày một tuổi hạc chất chồng, càng thêm vất vả, tối ngày vật lộn vì sinh kế, những mong thế hệ tương lai có một chỗ đứng khiêm nhường trong xã hội đương thời.
Đã vậy, nhiều lúc tôi ngồi trầm tư, buồn nhớ quê nhà, tưởng chừng sẽ không khỏi mang phải tâm bệnh!
Chẳng những thế, riêng mình còn cảm thấy một mất mát lớn của tuổi trẻ. Nhìn lại từ thuở nằm nôi, đến lúc trưởng thành, lúc nào cũng mải mê hương đồng cỏ nội, thế mà nay lại phải đành đoạn rời xa hàng tre, bụi trảy, chia tay cả lũ bạn bè quần đùi áo cánh, cùng trang lứa rong chơi, đã một thời u quạ, nhảy dây, đánh giặc giả, xưng hùng xưng bá, kể cả thống lãnh binh bị của đội quân tí hon hỉ mũi chưa sạch, từ làng trên đến xóm dưới.
Chưa hết, vào cứ mỗi trưa Hè, rủ đi bắt tổ chim Dồng Dộc, rình rập chim Sẻ sú mồi cho con ở mái đình làng, còn hẹn nhau ra sông câu trê, đặt lờ, cắm trúm… Rồi, dọc ngang bơi lội, thỏa chí vẫy vùng từ đầu nguồn tới hạ bạn, ngâm người dưới giòng nước, cả ngày dài tắm nắng, da dẻ sạm đen như con rái cá, bên cạnh những Mỹ Nhân Ngư trong làng, trố mắt trừng nhau, kéo dài hơi thở bằng những bong bóng tình yêu, ngôn ngữ chỉ có dấu giọng và cứ vậy tha hồ hớp sóng, đuổi gió chẳng muốn lên bờ.
Phải thành thực mà nói, đi học vào thời điểm đó, sẽ không tránh khỏi thiếu thốn đủ thứ, biết làm gì hơn, để khỏi phụ lòng đấng sinh thành, tôi cố khắc phục mọi chuyện, như người lớn tuổi, lo lắng cho chính mình vậy. Nhất là bao giờ cũng thủ phận của một học trò nghèo, lặn vết thương lòng, xem ra lúc nào cũng rỉ máu, đăm chiêu về khung trời có nhiều ước mơ của tuổi trẻ, tưởng chừng nỗi ngậm ngùi ngự trị trên vùng xót xa, cho nên cứ khóc thầm hoài: Bởi vì nhớ nhà vô cùng!
Nhiều lúc con ma gây nên nỗi nhớ trầm kha ấy, đồng loã với thất tình, đã gặm nhấm lần hồi sinh lực, của một chàng thư sinh hiếu học, làm mất lần… mất hồi cả ý chí phấn đấu, từ bình sinh tuổi trẻ, nhìn đi nhìn lại không thể tìm lời vỗ về nào hữu hiệu, những mong xoa dịu linh hồn thương tổn, một sớm một chiều cho được.
Nội mơ màng đến hình ảnh Thầy Mẹ tôi, cứ mỗi hoàng hôn đến sớm hơn thường lệ, lụ khụ dắt nhau ra đầu ngõ, ngồi dựa bên hàng rào chè, cho tay ngắt những đọt trà non, đưa vào miệng nhai ngấu nghiến, rồi ngửa mặt hóng ngọn gió Nồm từ biển Nam Hải dìu dặt phả vào, qua cánh đồng lúa mùa, mã con gái mơn mởn, cố thả mắt nhìn về chân trời xa xăm, chắc chắn đấng sinh thành không khỏi tượng hình thằng con trai dõng dạc, trong thị giác chằng chịt tế bào thương cảm, giữa lòng con ngươi thật thà chất phát, đầy nhiễm thể cô đơn, trôi lung linh trong cù lao di động và dàn dụa nước mắt ngậm ngùi, ngập lụt cả võng mô điêng điếng.
Cứ mơ màng đến người thân yêu trong gia đình, là hai giòng nước có vị mặn cố hữu rịn ra từ khoé mắt bầm đen, rồi chảy miệt mài lên vùng bình nguyên phúng phính, chưa hơn một lần nếm phải mùi vị phong trần, của giông bão cuộc đời, nên chẳng làm thành vết tích tình yêu của mùa niên thiếu bao giờ.
Bỗng dưng, tôi lại nhớ đến ngôi từ đường cổ kính của Nguyễn tộc, mà Thầy tôi là cháu Đích Tôn được thừa hưởng cả Hương Hỏa Từ Đường và lo lắng thừa tự, nhang khói cúng kính ông bà. Tuy mỗi năm chỉ có một lần, nhưng dịp ấy, đại gia đình đoàn tụ, làm sao tôi quên được những gương mặt thân thương của họ hàng, bà con cháu chắt Nội Ngoại, trong ngày lễ Tế Hiệp đó.
Con đường tương lai tuy xa dịu vợi, nhưng mầu nhiệm thay, như có ai trả tôi về với hiện tại, trên lối đi, tuy bì bõm dò la sông rạch, tôi không ngớt liên tưởng đến những gì thân quen của quê hương nhỏ, trong túi hành trang bé của đời mình, mỗi lần như thế, lại càng chán ngấy người lên, khi nhìn qua một lộ trình gian nan, dài ngút ngàn, đang mặc cả và thử thách thằng con trai, tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng giàu ý chí cũng như ham học chẳng kém ai.
Kìa là giòng sông không lớn lắm, uốn mình theo bờ tre doi đất, nằm vắt vẻo trước mặt, nhưng lưu lượng thừa sức tràn bờ ruộng nhỏ, đủ lượng nước nuôi sống đồng lúa tuổi đòng đòng đang ngậm sữa.
Sông Sa lờ đờ, như con bệnh đến hồi mệt mỏi, giỏng nước chẻ đôi làng tôi và thôn Triêm Ân, ra thành hai vùng mầu mỡ như nhau, nước nguồn đổ đầy hằng năm vào chiếc diều gà, trước khi thoát ra đầm Thị Nại, phụ lưu của sông Cái, đã có công ươm ngọt phù sa cho cánh đồng bạt ngàn, con nước cứ thế trôi lững lờ, một cách bình thản, tưởng chừng vô tư lự, nhưng vẫn nhớ đến trách nhiệm làm tươi mát cánh đồng Hữu Pháp Vân Tập, cho nhà nông có vụ mùa vụ chiêm khả dĩ.
Ai đi qua Sông Sa một lần, cũng cảm nhận thích thú không ít, nội mầu cát trắng ngà, lung linh tận đáy, gợn sóng nhỏ lăn tăn, ve vuốt làn da, thớ thịt, có khác gì bàn tay mầu nhiệm của người tình, vỗ về trên thân thể chú học trò mới lớn.
Mơ màng nhìn giòng nước lững lờ trôi, thấy chưa đủ sức gom những cánh bèo lang thang đi về một mối, cơn gió nhẹ chỉ vừa gây chao động mặt sông, làm bờ cỏ lùng, cỏ lát thập thò, như cố ý che khuất bóng bầy cá Luối, cá Bống Mú, cá Chốt động tình, từng đàn đua nhau lội ngược giòng, tung tăng tìm nơi kín đáo đẻ trứng, sinh con, trước một mùa Đông mưa dầm gió cuốn, cả ngày dài trời mây âm u băng giá sắp đến.
Nhìn đi nhìn lại, chẳng còn con đường nào để chọn, đành lặng lẽ cởi cả quần dài quấn vào cổ, hy sinh chịu nhận nước chiếc xà lỏn cũn cỡn, để khỏi bị mang tiếng là cung xúc tu sĩ, hăm hở nghiêng người cõng con ngựa sắt lên vai, dọ dẫm chỗ nào lòng sông cạn nhất, cho khỏi ướt chiếc áo mới, mầu kaki cứt ngựa, Mẹ vừa may cho, nhân mùa Tựu Trường. Thế là chân cao, chân thấp bước đi một mạch, mong sao qua khỏi trở ngại cuối cùng, mới tới được con đường Cái Quan, còn xử dụng đến chú ngựa sắt, cho mình đỡ đi phần nào hao tốn sinh lực.
Qua được bên kia bờ, tôi ngồi thở phào lấy sức, chờ hít thở chút không khí trong lành, từ đầm Thị Nại thổi vào, rồi hớn hở lên pedal, chiếc xe đạp cuộc đòn dông, mầu xanh lá cây, sẵn sàng cho ông chủ trẻ của nó thao túng, tôi đạp muốn ngút hơi, cố tình chạy như bay biến, cho kịp đến Qui Nhơn trong ngày, như Thầy Mẹ vẫn thường căn dặn trước khi khăn gói quả mướp, chấp nhận giam hãm hình hài trong bốn bức tường chữ nghĩa.
Đến Gò Bồi, phiên chợ Dạng cũng vừa tan, những cô gái gương mặt còn trẻ măng, tóc chấm bờ vai mượt mà, nước da bánh mật, đẹp như thiên thần, hóa thân dân giã, tay trong tay dung dăng dung dẻ, túa ra từ các ngả vào chợ, sững lững nhìn tôi, che miệng mỉm cười thật duyên dáng, rồi hè nhau tụm năm, tụm ba, có thể đang trầm trồ về sự xuất hiện của thằng con trai nửa quê nửa Tỉnh, vốn dĩ các cô em chẳng biết tôi từ đâu đến, mà lại đi xe đạp, trông có vẻ nếu không con nhà, thì ít ra cũng là kẻ ở phố thị về thăm quê, vào dịp cuối tuần, trước khi trở lại trường dùi mài kinh sử.
Lần đầu tiên trong đời, của cậu bé nhà quê, tôi đã nghe từng cơn rạo rực dấy lên, trong tâm hồn phẳng phiu, giữa thềm ký ức đầy vẻ lạc quan, qua tâm tư đã chớm màu hạnh phúc, rồi cứ thế, chuyện gái trai điểm diện từng mối thương cảm, đan thành nỗi nhớ mênh mông, giăng mắc trong trái tim bỏ ngỏ, của chú bé dậy thì trước tuổi.
Tôi nhìn say sưa những viên ngọc qúy, lăn lóc giữa miền quê hẻo lánh, đến nỗi không chợp mắt, vẫn biết tuy chưa được nghệ công tác tạo bao giờ, nhưng sừng sững một tòa thiên nhiên, trong chiếc máy chụp hình bén nhạy của chú bé nhà quê, chỉ nhìn cánh áo Bà Ba hở nách, lồ lộ chữ V trắng nuột, đủ làm điếng hồn thằng con trai mới lớn, đang chập chững vào đời, tôi còn đứng ngây dại trước Vệ Nữ Thần, như ngọn cỏ hai bên đường, chờ chút gió Nồm đưa duyên động tình, hình như mọi giác quan của chú học trò, đều phó mặc cho những mụ phù thủy trẻ, ranh mãnh, tha hồ di sơn hoán vũ, ra lệnh cho con đồng trước điện riu ríu làm theo, tôi cúi gằm mặt xuống, bẽn lẽn bên cạnh con ngựa sắt, như thủ thỉ cùng người bạn đồng hành, vẫn biết lúc nào nó cũng vâng lời lời người chủ trẻ, tôi đưa tay vỗ về trên lưng con tuấn mã, không khỏi ước ao sao, được nâng niu và vuốt ve chữ V kia, để vo tròn ước vọng vào vùng khả ái, tôi bắt gặp trong tâm tư thầm kín, đã từng cơn dậy sóng ái tình, làm kẻ trồng cây si chân đi không được, mới thấy câu thơ của thi sĩ thời tiền chiến, có sức công phá và chế ngự tâm hồn mãnh liệt, ngay từ buổi ban sơ:
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.
Thời thập niên 40- 50, mà có chiếc xe đạp, nếu không muốn nói là trưởng giả, thì cũng được sinh ra trong gia đình trên trung lưu, nên các em ước muốn làm người bạn đời của thuở thiếu thời da diết, nếu may mắn hơn, đi đến nâng khăn sửa trắp, cũng không đến nỗi gì, dù biết phận gái mười hai bến nước chăng nữa.
Tuy không che giấu được vẻ bẽn lẽn cố hữu, âu cũng là cái cớ làm duyên thật đó, nhưng nồng độ yêu đương không thể qua mặt được hê thống hàn thứ biểu bén nhạy, cộng thêm một chấn động đồ ghi nhịp đập trái tim, trước thời tiết và lòng người bất thường, nên các cô vẫn che nón hoặc tìm mọi cách nhìn trộm, ngỏ hầu chinh phục co được thằng con trai miệt vườn, có lẽ với chú tâm của các cô, xem gã con trai ấy có hợp nhãn mình không, có còn tỏ ra trọng vọng và yêu thích mình về lâu, về dài nữa không?
Tôi lại bắt gặp thêm lối ngụy trang, xem ra có bài bản, không kém gì của các cô em ở tỉnh thành, bằng cách dùng năm ngón tay thay lược chẻ tóc, để có dịp nhìn lén qua mấy khe nõn nà, thon gọn của búp đòng đòng, không ngoài mục đích tự do hơn, để con ngươi quan sát một cách linh động, cho khỏi mắc cỡ. Chao ơi là tình cảm của các cô gái quê, nó dễ thương làm sao và hồn nhiên như thuở nguyên thủy của loài người!
Mê mẩn trước sắc đẹp trời ban, cho những kẻ thiếu ánh sáng văn minh, cả đời chịu giam hãm hình hài trong lũy tre làng, ngày lại ngày tìm vui trên cánh đồng bao la, sông dài ngút ngàn, tôi không khỏi suy nghiệm:
Định luật bù trừ của tạo hóa!
Kìa là những đường cong tuyệt mỹ, lồ lộ trong chiếc áo vải phin nõn, những núi đồi thoai thoải được gói ghém sau chiếc quần lãnh Mỹ A đen óng ả dễ thương, hớp hồn gã thư sinh chập chững vào đời, thế là tiếng sét ái tình đánh trọng thương, nửa đường muốn gãy gánh, làm quên bẵng cả lời Thầy Mẹ dặn dò, trước khi cậu con trai vâng lệnh song đường, ra đi mua lấy chữ nghĩa, cho bản thân mình. Mẹ tôi coi vẻ gần gũi con cái hơn, nên không quên rỉ tai lần chót:
– Bằng mọi cách phải có mặt trong ngày Tựu Trường, nhe con! Các Frère dòng khó tính lắm đấy.
Nghĩ đến đó, tôi lại nhăn mặt, có vẻ hối hận, thế là hôm nay, vô tình mình đã lỗi hẹn cùng đấng sinh thành, tôi bây giờ nhìn lại, không khác nào như Lưu Thần Nguyễn Triệu lạc vào động Thiên Thai, mà quên mất đơn vị thời gian và chẳng còn nhớ gì đến ngày về trần thế.
Tuy nhiên, vẫn gom góp cả sinh lực, tưởng chừng năng lượng lẩn trốn ở đâu đó, trong thân thể tráng kiện, khi tinh thần đã bị tổn thương trầm trọng, hành động còn là yếu tố tâm lý, ít ra cũng cho tôi cảm thấy mình vẫn còn kiểm soát được lý trí, cứ thế yên chí đến mãnh lực, chỉ việc co giò muốn đạp lẹ qua bên kia cầu Gò Bồi, để còn kịp về Qui Nhơn, trước giờ hoàng hôn, điều đầu tiên là khỏi thấy tâm tư mình vụn vỡ trong màn đêm thập thò buông xuống, tưởng đã cố tình nhận chìm đời mình vào tối tăm. Chỉ vì có một bài tình ca đã xoáy sâu vào tâm tưởng, trong vùng đam mê của tuổi trẻ bồng bột:
… Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn…
Nhưng, quá đỗi ngạc nhiên không ít, cái quyến luyến vô hình kia, đã trì kéo tôi, làm cho thằng con trai có thừa nghị lực từ thuở ban đầu, đành dùng dằng, tiến thối lưỡng nan.
Nhìn vào diễn tiến hiện tại, những thú vui trai gái, vượt qua bức tường lễ giáo, có thể mình sẽ không thoát khỏi tiếng chì, tiếng bấc từ đấng sinh thành, làm cắn rứt lương tâm, chẳng tránh khỏi lời ong tiếng ve, mà có lúc mình nhớ không lầm, đã hứa cùng Thầy Mẹ, tạo một tín chỉ vững tâm cho người ở nhà:
– Tất cả chuyện gái trai, ong bướm, xin tạm gác ngoài tai, chỉ lo việc học hành.
Lục lại ký ức mình, kể cả đức vâng lời, như cũng thả trôi theo giòng sông Gò Bồi, hợp cùng cuồng lưu khác từ các vùng quê lân cận, đổ xuống nò bảy miệng, trước khi âm thầm xuôi vào đầm Thị Nại.
Có một điều lạ thay, khó lòng chứng minh sao cho ổn thỏa, hôm nay bỗng dưng thần trí tôi lại mềm nhũn như con chi chi đến thế:
– Bước đi một bước, lây giây lại dừng!
Lưỡng lự mãi, cố vực dậy chút nghị lực làm sống lại một thực thể còn lưu luyến trong người, thế là cuối cùng của trận chiến tâm lý, tôi tuyên xưng đã chiến thắng, bắt trái tim mình khép hờ, để lý trí khôn ngoan có đủ thời gian hành động, theo đồ án đã thiết trí từ trước.
Tôi lầm lũi đạp, con ngựa sắt cũng đảm đang ghê, không hề tỏ ra chúng chấn gì cả, mới đó mà đã bỏ lại sau lưng, hình ảnh các em gái nhí nhảnh của Gò Bồi.
Có điều biết chắc, những người đẹp của hương đồng gió nội, sẽ không khỏi bùi ngùi, bên kia giòng sông nước xà hai, đang thắc thỏm thầm thương trộm nhớ, ân hận hơn nữa, có lẽ là chưa được cơ hội nào thốt nên lời nói ngọt ngào với chàng trai xem ra lý tưởng đó:
– Em đã lụy vì tình và yêu anh da diết!
Miên man trong suy nghĩ, thử thách nhỏ làm biến động đầu đời, đã cho tôi một bài học quý giá, không thể nào để tình cảm phiêu lưu mạo hiểm trong vùng đam mê, khi công chưa thành, danh chưa toại, trong lúc đó, ở quê nhà, Thầy Mẹ tôi đã đặt hết kỳ vọng, vào thằng con khôn hơn trước tuổi trưởng thành, lại còn có sẵn một sa bàn lập thân với đời, cho tuổi trẻ cùng lớn theo ngày… tháng…
May mắn thay, tôi dừng lại đúng lúc, trước khi sa ngã vào một mê hồn trận nữa, đủ để chứng minh đã thấm nhuần lời người xưa và vẫn còn giá trị, dù thời gian có đổi thay cách mấy:
– Sắc bất ba đào dị nịch nhân! (nhan sắc không phải là lớp sóng làm dễ đắm thuyền).
Tuy con đường học vấn còn dài, liệu chiếc thắng an toàn có còn hiệu nghiệm, cầm giữ được cỗ xe rủi dong, từ giờ… phút… bình minh của chuyến khởi hành, đi mua lấy chữ nghĩa thánh hiền, làm vốn liếng lập thân.
Tôi phân vân mãi, thừa biết mình có giòng máu ham vui, cảm nhận tất cả mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, ưu ái dành cho loài người, đi đến đâu cũng ngưỡng mộ những gì kỳ công mà tạo hóa tác thành, cho nên đinh ninh rằng, khó lòng cầm giữ vận mạng, cho khỏi cung đa đoan. Nhưng cũng tự an ủi, cố gìn lòng mình thanh thản, được lúc nào hay lúc đó, chẳng những đáp lại tấm thạnh tình của Thầy Mẹ, mà lương tâm không bị cắn rứt, khi cảm thấy hối hận dấy lên.
Nói gì thì nói, nhưng vẫn tranh thủ với thời gian, nhìn tổng quát lại lần chót, tất cả đâu vào đó, co giò lấy sức, cứ việc thẳng tắp Tỉnh Lộ Gò Bồi Qui Nhơn, nhưng đến vùng nhà thờ Gò Thị, trời ngã bóng xế, thấy còn đủ thời lượng, nếu biết khắc phục. Tôi đổi ý định, muốn nán lại tham dự Thánh Lễ chiều nay, để mai này Chúa Nhật, ở Qui Nhơn rãnh rỗi trọn ngày, còn xếp đặt công việc học hành, cho buổi đầu tiên trở lại trường, như Thời Khóa Biểu mà Thầy Mẹ đã ấn định từ trước.
Ngót tiếng đồng hồ để lòng mình về với Thiên Chúa, những ước muốn vụn vặt trong tâm tư thầm kín, đều dâng lên cùng Thiên Chúa quan phòng, tôi qùy phía nam thanh, nhưng tính nào tật nấy, vẫn cứ vè mắt nhìn qua bên kia phần nữ tú, để rồi không khỏi chắp răng chắp lưỡi, khi thị hiếu đã làm thỏa mãn phần nào, một trong ngũ giác quan, tôi gật gù thầm thì với riêng mình:
– Con gái xóm đạo Gò Thị, Xuân Phương đẹp vô cùng! Nhìn những vòng tay khoanh hờ trước ngực, trong nét mặt đoan trang, qua giờ Thánh Lễ, đã cho tôi một ấn tượng hạnh phúc như Đức Bà Maria ôm Chúa Giê Su hài đồng vào lòng.
Lại một một lần nữa tôi vô tình lẫm đẫm đi vào đất Thánh. Những tấm lòng thánh thiện đang cao rao lời kinh tiếng hát, trong ngôi Giáo Đường cổ kính, đã Thánh hóa lòng tôi, như con chiên thuần thành của Giáo Phận.
Tan Thánh Lễ, tôi đi rảo một vòng, kìa là Tượng ông Thánh Nam Thuông, đứng sừng sững như mỉm cười cho gã con trai si tình, vẫn chưa tan niềm ao ước Tiểu Đăng Khoa, để đi đến Đại Đăng khoa, cùng các cô con gái Gò Bồi, giờ này đến mơ màng dựng lên mái ấm với các em xóm đạo Xuân Phương Gò Thị, rồi mai đây không khỏi thề non hẹn biển cả người đẹp thành phố Qui Nhơn… từ đó tôi mới khám phá ra lòng người chất chứa một túi tham vô tận, đã không muốn để lỡ cơ hội nào, trong tầm tay có thể vói tới một Thiên Đàng của hạ giới.
Như người vừa chợt giấc Nam Kha, tôi cũng đã sống thực với hồn mình, tự nhủ thầm, phải phấn đấu với mơ mộng hão huyền, mới mong thoát khỏi những đam mê trần tục cám dỗ. Vả lại, thứ tình yêu một chiều, chỉ âm thầm đến rồi ra đi lặng lẽ, chẳng qua chỉ làm thỏa mãn trong chốc lát. Cuối cùng, rồi cũng cất lên lời than thống thiết với một rừng trách cứ ngổn ngang:
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tôi đưa tay làm dấu Thánh Giá, cám ơn Thiên Chúa đã rũ lòng thương một con chiên ngoan đạo, có nhiều ý chí lập thân, nhất là cho thằng con trai lần đầu tiên xa nhà, biết nỗi buồn sẽ gặm nhắm lần hồi, nên còn tặng thêm niềm vui đầu đời, cho gái trai trải lòng nhau, phải chăng như dấu ấn tình yêu Thiên Chúa, để tương lai mở mang nước Người.
Thế là tôi đã vượt qua mọi trở ngại, trên đường mua lấy chữ nghĩa thánh hiền, chế ngự được một phần ba đoạn đường dài, đưa mắt trông về phố biển, nơi mà tôi phải về cho kịp chiều nay, để khỏi thất hứa.
Mặt trời sè sè trên đầu ngọn cây, nhìn những cụm mây chiều, ùn ùn nổi lên từ chân trời xa thẳm, có lẽ đang vun hơi nước, trong làn mây xám đục, chuẩn bị làm cơn mưa giông thường lệ cuối ngày.
Lòng tôi rộn rã, soãi người trên yên con tuấn mã, thu mắt nhìn chiều dài, qua trí tưởng tượng, không khỏi mơ màng đến buổi Tựu Trường, hình ảnh rương nho nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc, xếp hạnh phúc theo chương trình lớp học, đã làm cho tôi quên đi những nỗi nhọc nhằn. Rồi mai đây, biết bao người trẻ sẽ tìm vui với bạn bè cùng trang lứa:
Trong sân trường tưởng dạo giữa đào viên.
Quần áo trắng tựa như lòng mới mẻ.
Chân non dại nhẹ nhàng từng bước nhẹ.
Tim run run trong tình cảnh rụt rè.
 
Xong bổn phận đi lễ, xưng tội, của một con chiên thuần thục, tôi tiếp tục làm kiếp lữ hành, đeo lên vai đầy lời dặn dò, và cả hình ảnh Thầy Mẹ khả kính, một người, một ngựa, cứ thế đo đoạn đường dài.
Nhìn đi nhìn lại, vẫn còn trong vùng đất Thánh, hình ảnh những cô bé xóm đạo đã từng hớp hồn tôi, cứ lãng vãng và in đậm nét trong võng mô cậu học trò đa đoan tình ái.
Biết vậy, nhưng cũng cố nhắm mắt lại, cho linh hồn thanh thản phần nào, mong sao có bàn tay mầu nhiệm, kéo tôi ra khỏi vũng lầy trần tục, ngỏ hầu ổn định tinh thần, chế ngự niên khóa đầu tiên, vốn hiểu rành rẽ: Vạn sự khởi đầu nang! Và phải biết tâm niệm lời người xưa: Đường đi khó, không khó, vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
 
Nguyễn Thế Giác
Trinh Sát 40 Trấn Nhậm Thành Phố Bồng Sơn
Tác Giả: Nguyễn thế Giác



Tôi, Nguyễn Thế Giác, nguyên là Đại Đội Trưởng Đại Đội Trinh Sát Trung Đoàn 40 thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh, đã từng hãnh diện nhận lãnh Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương với nhành Dương Liễu. Về sau được Thượng Cấp cất nhắc đi làm Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 47, do Đại Tá Lê Cầu chỉ huy đơn vị.

Xin ghi vài nét tiêu biểu về người anh cả của gia đình 47, một trong bốn Trung Đoàn của Sư Đoàn Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà.

Ông xuất thân khoá 18, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tốt nghiệp, trình diện đơn vị, làm Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, chưa đầy một năm làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 2. Ngày tháng dần qua, khả năng lãnh đạo chỉ huy thể hiện, vừa nhu cầu chiến trường, ông được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2. Cuối cùng là Trung Đoàn Trưởng, cũng Trung Đoàn này, suốt một thời gian dài, ngược xuôi cao nguyên duyên hải, hoàn thành sứ mệnh người trai thời quốc biến.

Tuổi trẻ nhiều ước vọng, như lời thề trong Quân Trường ngày nào, vào đêm cử hành lễ Truy Điệu:… Tôi không thích an lạc và dễ dàng, chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm! Có lẽ vì vậy, nên cả đời trai tung hoành bốn cõi, cung kiếm ngang trời, dìu dắt đơn vị trên khắp chiến trường miền Trung, cho đến thời điểm đau thương nhất của vận nước. Cuối cùng, đơn vị được lệnh di tản chiến thuật, để bảo toàn lực lượng, trước tình hình địch đè nặng trên phần lãnh thổ Quân Khu.

Ông đưa “con cái”về Thủ đô tái phối trí, tiếp tục đánh một trận ở Long An để đời, cuối mùa đau thương và hào hùng trong pho Quân Sử. Việc hiếm thấy một Sĩ Quan trưởng thành giữa lửa khói, mà lưu luyến cùng một đơn vị lâu đến như thế, là điều hết sức ngạc nhiên. Nếu không muốn nói là binh sĩ thương ông, cũng như mến mộ tài đức chẳng kém. Do đó, khoá 18 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, ông là Sĩ Quan được thăng cấp Đại Tá sớm nhất. Cũng vì phục vụ cho lý tưởng Tự Do và hy sinh liên tục cả một chiều dài tuổi trẻ, nung nấu và hoà mình với định mệnh của dân tộc, Sư Đoàn 22 đã cho ông một hoài bão lớn lao của đời trai luyến lưu với mệnh nước:

Sư Đoàn mẹ với hai sông ba núi.
Rượt địch thù ra khỏi dải biên cương.

Trong chiến sử vừa qua, thiết tưởng cũng đã ghi rõ công trạng từng mỗi đơn vị. Những chiến tích hiển hách ấy, không ngoài mục đích cho thế hệ tương lai thấy được nỗi quan hoài và hy sinh cao cả của cha ông, đã giữ nước bằng máu, nước mắt, trộn lẫn thành ý chí kiêu hùng:

Ba dãy núi đen hai dòng sông trắng
Máu, mồ hôi thắm mặn dải quê hương.
Vượt Trường Sơn và ngụp lặn đại dương.
Đem khí thế đằng đằng đằng vùng hoả tuyến.
Đeo nặng trên vai người hùng của biển.
Vào cao nguyên đời mãnh hổ tung hoành.
Trên đỉnh Tam Biên trùng điệp rừng xanh.
Tô Quân Sử khắp vùng II chiến tích.

Nhân đọc truyện ngắn của Trường Sơn Lê Xuân Nhị, làm ray rứt nhớ đến chiến trường xưa, những địa danh vang bóng một thời, nhiều đêm nằm chờ hoả châu soi sáng, dưới cơn mưa rừng vuốt mặt không kịp; cái lạnh cao nguyên miền Trung có thua gì Khe Sanh, Lao Bảo hoặc miền Thượng Du Bắc Việt, nhưng vẫn mò mẫm cố tìm cho được thằng em còn kẹt dưới giao thông hào; đất đỏ cao nguyên trơn trợt có khác nào leo lên cột mỡ, sau đợt tấn công thí mạng cùi, giành giật ngọn đồi chiến lược; cả tháng gạo sấy cá tuna, có bữa thịnh soạn nhất được hai con heo nút lưỡi nấu canh lá vang (hai con heo nút lưỡi là thịt bằm xay đóng hộp); đêm trói người trên lưng võng ny lông và chiếc mền dù; đôi bút đờ sô dính liền với bàn chân, có khi hết chiến dịch hành quân, cựa mình ngửi mùi da ướt đẫm mồ hôi, xông lên thum thủm như chuột chết; nằm thèm thành phố muốn khùng, ước mơ đủ thứ, làm nuốt nước miếng ừng ực, để tiết tâm linh thay vì tiết hoá học ve vuốt cơ thể, cho qua cơn khủng hoảng, của một con người tri thức bình thường.

Nhà văn Quân Đội của chúng tôi là một phi công hũ hèm, có lẽ vì bất đắc dĩ, sinh bất đắc chí chăng? Ông Quan Một say túy lúy bất kể trời đất, (khi lính đã… chơi rừng tàn núi lở) từ miền đất thấp vọng lên nỗi nhớ. Con ngựa chứng ấy, tưởng chừng đã thả lỏng yên cương, đến giờ này tuổi đời coi như đứng trên thềm dốc chiều, nhìn hoàng hôn mờ mờ trong đôi mắt phân kỳ, qua dòng Mississippi lững lờ trôi, bên quán rượu vùng French Square của New Orleans, Louisiania, trong võng mô luôn thấp thoáng niềm tự hào. Nhất là lòng nhiệt thành và quả cảm với Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa thân yêu, cũng như bạn bè cùng mầu cờ sắc áo tưởng chừng vô bờ bến.

Thời gian lưu vong gần bốn thập niên, nợ áo cơm đã làm nhầu nát mảnh chinh y, thế mà “giặc lái” nhà ta vẫn còn ấp ủ niềm tin một Quân Lực sống lại. Đặc biệt chẳng thể nào quên Tổ Quốc Không Gian, một phù hiệu mà anh ôm ấp và trân qúy như vàng mười chén mỏng của gia phả lưu truyền cho cháu con phải gìn giữ.

Lời nói của anh là những tạc đạn mà anh bấm nút thoát ra, thét gào vào không gian lửa khói, từ thân tàu ngày nào, đâm thẳng vào trái tim thiếu dòng máu đỏ. Anh, một chiến sĩ bất đắc dĩ làm nhà văn chuyên nghiệp, đã cống hiến độc giả trên diễn đàn Văn Hữu, vào dịp 30 tháng 4 thường năm, từ ngày đứt phim, mang thân phận lưu đày, ăn nhờ ở đậu trên phần đất tạm dung, chờ ngày hồi hương trong danh dự.

Nhà văn Trường Sơn Lê Xuân Nhị, xem ra không khác một phóng viên chiến trường, da diết yêu nghề, đã dùng ngòi bút thay vì ống kính, vẽ lên một hoạt cảnh trung thực trên hành lang cao nguyên ngày đó, càng đọc càng thấm thía vào xương tủy. Riêng tôi cảm động đến ứa nước mắt, nghĩ về cuộc đời lên công xuống tấn, suốt mùa binh lửa của mình, những ngày lăn lóc trên chiến trường miền Trung, vào chiến dịch mà tôi nhớ không lầm, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc lời hiệu triệu cùng quốc dân đồng bào, ông dõng dạc trên làn sóng:

“… Tất cả quân dân cán chính miền Nam, từ giờ phút này phải vùng lên tái chiếm lãnh thổ đã mất! Không để một tấc đất nào lọt vào tay giặc!”

Từ những lời chí tình với Tổ Quốc Việt Nam, mới có những cụm từ cuồn cuộn chảy, như dòng máu nóng sôi sục về tim, nào: Bình Long An Lộc Anh Dũng, Trị Thiên Kiêu Hùng, Kontum Tân Cảnh Sừng Sững, Benhet Dalkto Vùng Dậy…

Lâu quá không được rửa mắt một thể loại phóng sự chiến trường, sau ngót bốn mươi năm ngậm ngùi thương tiếc. Giếng nước mắt trong tôi đã khô cạn từ bao nhiêu năm qua, bỗng dưng cái thằng ma gà (xin lỗi, tiếng “ma ga”ụ là một ngôn từ vô thưởng vô phạt, anh em Quân Đội thường dùng, thật mộc mạc dễ thương, của người lính tác chiến thứ thiệt. Kính xin quý vị hãy để tâm hồn sống lại thời đó, sẽ nghe trong âm vang xao xác: Lính mà em! Chứ không phải tác giả kém văn phong đâu! Những mong được tha thứ và bớt đi lòng cố chấp, để cho bài viết này có phần sống động, như một thiên hồi ký chiến trường ngày nào, của đặc phái viên báo chí từ bốn vùng Chiến Thuật tường trình, trên đài phát thanh Quân Đội một thuở) làm mắt tôi lại rưng rưng….

oOo



Ngày ấy, cố Đại Tá Lê Đức Đạt, khao khao giọng thổ, lời nói đặc cứng như khối thép, đã được trui rèn trong lò luyện kim Quân Đội, con người dong dỏng cao, đầu lúc nào cũng đội bê rê nồi mầu đen, được biết ông xuất thân từ binh chủng Thiết Kỵ, một đơn vị đã từng làm mưa làm gió trên đầu địch. Dĩ nhiên, đời Kỵ Binh cho ông rất nhiều kỷ niệm của một thời gắn bó và trưởng thành, trong cuộc sống Quân Ngũ, dưới hai nền Đệ Nhất cùng Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà.

Nhớ lại… ngày đó, mỗi lần nghe thưa pháo (122 và 130 ly như ăn cơm bữa, do bọn tiểu yêu sơn pháo yến tiệc hằng ngày, ở mặt trận Tam Biên), Ông lò dò bước ra khỏi Trung Tâm Hành Quân (TOC), đi một mạch đến sân cờ, thăm hỏi và động viên tinh thần con cái. Vẫn bổn cũ soạn lại, cũng đá đít tôi với vẻ mặt hăm hở, trên đôi môi mấp máy, khô ran, chắc chắn tấm lòng vị Tư Lệnh Tiền Phương đầy trìu mến, mới thể hiện bằng lời nói ngọt ngào như thế, trong lúc chiến trường Tam Biên không ngừng sôi động, những đồn bót do Biệt Động Quân vùng II trấn nhậm, đã không còn hiệu năng, lực lượng cơ động của Quân Khu tứ bề thọ địch, vô hiệu hoá những cuộc hành quân, mà trước đây mình thường chủ động chiến trường. Cả dải hành lang biên giới bấy giờ bị xé nát với hơn cấp số bốn Công Trường địch, cộng thêm cơ giới quần thảo xa luân chiến suốt ngày đêm.

Đơn vị Trinh Sát thuộc về chú Mãnh Hổ (danh xưng và huy hiệu của hung thần đầu lâu xương chéo chúng tôi ngày ấy) ngồi dài người, chờ táp pi với lũ cô hồn các đẳng bất cứ lúc nào, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng đi nhặt lá rơi (cứu hộ phi công của những chiếc trực thăng lâm nạn), chiều lại thả những toán Viễn Thám dọc đường mòn ông già mắc dịch, để rình mò xem bọn lau nhau kéo pháo, giấu quân và không quên những đoàn môtô-lô-va như loài cua đinh sứt càng, gẫy gọng, khập khễnh qua đèo vượt suối nhằm cung ứng tiếp tế, tiếp liệu cho bọn sinh Bắc tử Nam, lũ người ruồi gieo máu lửa, không khỏi bội thực, bởi những bát B52 lồng khung ô-ca-rê, như làm cỏ mọi sinh vật trong vùng, hoặc từng đợt pháo binh bắn ra-phan long trời lở đất, do những người lính vô hình (viễn thám) điều chỉnh khá chính xác, đưa những viên đạn không có lỗ tai vào yết hầu, làm á khẩu bọn sao vàng, sao đỏ; vừa vượt Đồng Hới vào bổ sung quân số trên lãnh thổ miền Nam, những mong giải phóng phần đất Tự Do và ra sức trồng cây vô sản, hà hơi mầu máu đỏ, cho ngầy ngật dải đất thân yêu, ngõ hầu mở rộng Tổ Quốc Không Biên Giới, gầy giấc mơ trồng người, nắm tay nhau về cõi Đại Đồng nhảy sol đố mì.

Ngày, chúng tôi quần quật, tối lại tất bật phòng thủ kho đạn, một kho đạn dược lớn nhất, thiết lập tại cao nguyên, cung ứng cả chiến trường miềnTrung. Không một đêm nào mà được yên giấc, nhiều lúc nhận lệnh đột kích thần sầu quỷ khốc, vào sào huyệt của bầu đoàn thê tử thằng Sư Đoàn 3 Sao Vàng hoặc những đơn vị vừa nhận lệnh xâm nhập từ Bắc Bộ Phủ, còn ngơ ngác dao động tinh thần, phần chưa nắm vững địa thế, bị tấn công bất ngờ, Trinh Sát dễ dàng hốt cốt, như thọc tay vào túi lấy tiền.

Đánh đêm là nghề của chàng! Với quan niệm thật chính xác, trong bóng tối, kẻ nào thấy trước được, là kẻ ấy có nhiều ưu thế chiến thắng. Chúng tôi tâm niệm: Mỗi lần nổ súng, ít ra phải có một cây thịt đổ! Từ đó, làm chủ chiến trường chốc lát là đủ rồi, chụp giựt Chiến Lợi Phẩm, ba chân bốn cẳng biến mất trong khoảnh khắc, giữa rừng núi trùng trùng điệp điệp, riết rồi trở thành thiện nghệ, không hổ danh Trinh Sát 40 là đệ nhất sát thủ.

Toàn bộ gia đình Trinh Sát chúng tôi, ngày lại ngày ứng chiến tại sân cờ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, Hậu Cứ Trung Đoàn 42, nhận lãnh những công tác đặc biệt, lắm lúc đi bảy về ba, mèo tha ma giựt dọc đường, đố ai biết cơ cực dường nào, cho những đứa con bà Phước, ăn không no, ngủ không yên, đứng ngồi như con lật đật, đang dõi mắt tìm xem hành tung bọn mũ tai bèo, dép râu, ruột tượng… lén lút giữa rừng già biên giới. Nhất là tin tình báo cho biết T54 ù ù cạc cạc xâm nhập, là giật nẩy lên, còn nghe đâu đã bò về phía Đông Tân Cảnh, xuyên qua quận Dakto, thọc vào cạnh sườn của đám Biệt Kích Mỹ, (lính không Quân số) chuẩn bị làm một cú rendez-vous bất ngờ, ngay lòng quân đội trú phòng, với chú tâm tuyên truyền, đến những thằng báo chí thiên tả, làm đình đám xì căng đan cho xôm tụ trên mặt trận thương thuyết tại hội đàm Ba Lê.

Ông thần Lê Xuân Nhị hũ hèm của tôi, đã vô tình khơi nguồn tri bỉ tri kỷ trở lại, trong tâm tư thầm kín, làm cho mớ tuổi ở ngoài thất thập cổ lai hy của lão già thương phế binh này, với cấp độ tàn phế vĩnh viễn, phải thút thít khóc, hành động giấu đi những cảm động tuyệt vời, nhưng không tránh khỏi mặt nhăn như khỉ ăn gừng, đôi khi ấm ức nghẹn lời, mũi dãi lòng thòng như đứa con nít lên năm lên mười, đang vòi vĩnh một điều gì mà chưa được thoả mãn, khi người lớn vẫn còn cố chấp.

Cuối cùng, cũng biết hổ ngươi nên gục mặt, âm thầm khóc giữa lòng hai bàn tay gân guốc, vì nhặt được từng mớ kỷ niệm, trong vùng ký ức hẩm hiu, của những ngày giày xô áo trận, cơm vắt muối vừng, lội mút mùa lệ thủy, thiếu điều bá thở. Sức người có hạn, đơn vị chủ lực mà dãi nắng dầm mưa lâu ngày, trông hình hài thảm não hết sức, nhiều lúc âm thầm trong rừng già, không khác nào hoạt cảnh: … đường trường xa con chó nó tha con mèo! Cứ thế, hết bổ dọc đồng bằng duyên hải, chiều về lại cao nguyên, hát trong lòng Trường Sơn thâm u, nghe chim kêu vượn hú, buồn muốn chết người, chờ những cuộc thư hùng trống mái với bất cứ đơn vị nào, vô phước gặp phải, dẫu rửa chân lên bàn thờ, cũng không lấy gì làm ân hận.

Tôi khóc thật đó thằng anh em chí cốt! Khóc vì thương tiếc đến một Quân Lực bị bức tử, đau thương cho thế hệ trẻ của chúng mình, trót sinh ra dưới vòm trời ảm đạm, bị biết bao lũ đàn anh chẳng ra gì cầm cân nẩy mực, nhất hô bá ứng, đoạt cờ chạy hiệu cho những tên đế quốc đầu sỏ, rồi vỗ ngực tự hào thành quả đảo chánh. Làm cách mạng trời ơi đất hỡi như thế, mà cũng ta đây chánh khách thượng thừa, rồi bí mật nhận tiền thí vua, giết cả một đời trai cùng trang lứa ấp ủ mộng bình sinh, chẳng hề thương tiếc, để đến bây giờ phải hoá kiếp con ma vong quốc nô, xem đi xem lại trước sau gì, cũng khó lòng tránh khỏi hệ lụy đau buồn, khi tuổi già xồng xộc đến, sẽ gởi nắm xương tàn vào một thời gian không xa, trên quê hương con cháu chú Sam.

Nhớ những ngày ấy, tuy đã xa lắc xa lơ.

Buổi chiều, nắng xế xuống thật chậm, ngổn ngang những cụm khói trôi lang thang, sau cơn trải thảm của B52 trong thung lũng mật khu An Lão, nhằm chận đứng ý đồ thâm độc của Hà Nội, bằng mọi cách đưa đại đơn vị về thôn tính Bắc Bình Định, làm vùng trái độn giữa hai Quân Khu, để tính chuyện chia chác cho bọn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một lần nữa chú chó sói trong bài thơ ngụ ngôn của đại văn hào La Fontaine đã hiện nguyên hình và trước sau gì Việt Nam Cộng Hòa cũng mang thân phận chú cừu non khóc hận, dưới móng vuốt những con cáo già Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tôi vẫn có thói quen thường lệ, sau bữa cơm, cặp gắp điếu thuốc đi vòng doanh trại, nghe ngóng và đo lường tinh thần anh em, sau biến cố Tiểu Đoàn 3 do Trung Tá Trần Nghĩa Châu (khoá 19) thất trận ở Núi Chéo Hoài Ân, vào lúc tiến, thoái lưỡng nan. Cuối cùng ông chỉ còn nhắm mắt quyết định chiến trường theo ý mình, dù không mấy sáng sủa. Thế là nhất chín nhì bù, đưa quân vượt sông Kim Sơn, một phần binh sĩ an toàn về lại Thiết Đính, từ đó sáp nhập Hậu Cứ Trung Đoàn, nhưng tổn thất không thể nào quên được, khi địch trói tay, mà mình cũng khánh kiệt quân viện, vào thời điểm hiệp định Ba Lê ảnh hưởng không ít đến sự nhỏ giọt viện trợ Mỹ từ Quốc Hội Hoa Kỳ.

Tôi mơ màng, nhưng mắt đăm chiêu nhìn lên hướng núi, dãy hoành sơn phía Tây là tấu khúc hẹn hò của bọn Chính Quy Bắc Việt, lăm le cắt đứt Quốc Lộ I. Nhiều chiến lược gia, cũng như các nhà quân sự lỗi lạc của cả hai miền đều quan niệm, con rắn đen trên bản đồ, chạy dài từ Nam chí Bắc là xương sống Việt Nam, nên ra sức nuốt trửng. Trái lại, bên ta dồn tất cả nỗ lực, vừa tái thiết trùng tu, quan niệm giao thông không trở ngại, là yếu tố tất thắng, còn dành thời gian móc lại lưới an ninh, tình báo, cho những thị trấn địa đầu, để người dân vững lòng và có cơ hội an cư lạc nghiệp.

Tôi ngồi chồm hổm trên tháp canh, do Lữ Đoàn 173 Dù của Hoa Kỳ để lại, cạnh giao thông hào khá kiên cố, điều chỉnh chiếc ống dòm đến thẳng vị trí mình muốn, cố tình xem có gì khác biệt của dáng núi; một khi đại đơn vị địch có mặt trong vùng, nhất là sẽ không tránh khỏi chim chóc từng đàn rủ nhau đi tìm nơi trú ngụ. Những đột biến kia xuất hiện, cũng đủ nói lên một vài yếu tố khả nghi. Quả thật loài chim mất ngủ, vỗ cánh gọi đàn, nghe vang cả một góc núi, phần dân làng ngược xuôi, dù không ai nói với ai điều gì, nhưng trên vẻ mặt ngơ ngác, vì sự sống còn của gia đình, tự nhiên chẳng giấu được vài nét hối hả. Có lẽ, họ cũng quan niệm giản dị, một khi tai bay vạ gió giữa hai lằn đạn vô tình, không khỏi sẽ lụy đến thân nhân mình là cầm chắc trong tay.

Thứ tình báo nhân dân, đã cho ta một vài khái niệm cả quyết, để có đủ dữ kiện địch đang cố tâm bao vây lực lượng trú phòng, trong một thời gian không xa, họ sẽ huy động tấn công trực diện, nên ưu tư lúc nào cũng trĩu nặng, trong tâm hồn nóng như lửa đốt, trước thảm hoạ mất, còn không là ảo tưởng dễ quên.

Tôi trầm ngâm trước mọi giả thuyết về địch tình, mở ngọn zippo đốt điếu thuốc, kéo nhọn miệng liên tiếp, nuốt chất nicotin cho đã buồng tim lá phổi, suy nghĩ chín chắn; nhưng chưa hết điếu bastos xanh, âm thoại viên chạy đến mừng mặt bằng nụ cười đầy vẻ âu lo, dè dặt:
– Trình Đại Bàng, gia đình mình đã có công ăn việc làm rồi, chứ không còn ngồi chơi xơi nước nữa. Đừng sợ thất nghiệp trong thời buổi này, ông thầy ơi! Ai đâu có để cho gia đình mình ở hậu phương, mà lãnh lương uống rượu, buồn tay buồn chân lâu đến thế, mà mình cũng không sợ lụt ngón nghề sao? Lâu lâu phải thử lửa mới biết tuổi vàng chớ!

Tôi rời đôi mắt trước ống kính, đang chằm bẳm phát hiện giữa trục tung và hoành độ, nhìn thằng em từ đầu đến chân, giọng ôn tồn:
– Biết rồi chú em, ăn cơm Chúa phải múa tối ngày, thế thôi! Chú mày sợ làm vũ công hả? Hãy về quê chăn dê đi cho khỏi bận tâm!

Tôi cười ngất, không quên hỏi tiếp, để thấy được phần nào nhiệm vụ, trước khi đọc công điện chính thức và nhận lãnh phóng đồ hành quân từ Ban 3 Trung Đoàn tống đạt:
– Nội dung điện văn kỳ này có châm lắm không, thằng ông nội?

Thằng nhãi con tay cầm gọn lỏn ống liên hợp, mang máy PRC 25 đến gần, miệng lầm bầm trình thưa dậm dạ:
– Lương thực 5 ngày. Cơm nước trước 6 giờ chờ lệnh xuất phát.

Ban Quân Xa cung cấp phương tiện, thay vì 5 con lạc đà như thường lệ, nay họ cho mình 15 con, chẳng biết có đơn vị nào tháp tùng cùng mình chăng nữa. Điểm đến không xa lắm! Thành phố Bồng Sơn tha hồ cho Đại Bàng nhìn các em gái trắng da dài tóc, lắm cô trường Trung Học Tăng Bạt Hổ dễ thương đéo chịu được, rồi tụi em cũng được uống cà phê nóng, đánh bi da… lỗ có người hầu kẻ hạ, bù lại những ngày nhốt kín cuộc đời, trong bốn vách núi Trường Sơn, lạnh tanh mùi vị.

Thằng nhỏ thở phào, mắt láo liên, lại nói tiếp có vẻ phân bua:
– Đến chu kỳ tiếp tế, mà được Thượng Cấp lo lắng chu đáo như thế này, là đỡ khổ cho gia đình mình lắm.

Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu, như tìm thấy lối chơi ú tim, do Thượng Cấp xếp đặt, mà mình đọc được trong âm thầm, buột miệng:
– À ra thế, mình chậm tiêu đáng trách. Ngụy trang và che giấu là hai yếu tố quan trọng của một quân nhân tác chiến. Che mắt lũ nằm vùng trong thành phố, là ngón nghề của mấy chàng Viễn Thám nhà mình ấy mà! Nói tóm lại, dân Bồng Sơn Tam Quan nửa nạc nửa mỡ không thiếu gì, cũng ê càng lắm! Sáng ăn cơm Quốc Gia, tối thờ ma Cộng Sản, rồi nào giao liên, chị nuôi, mẹ chiến sĩ tha hồ cõng gạo nuôi quân, đã vậy còn báo cáo về những diễn tiến của ta không còn manh giáp.

Tôi chẳng chút chần chừ ra lệnh:
– Lát nữa, bảo các Thẩm Quyền chia từng đơn vị nhỏ, ngồi đều trên mười lăm con tuấn mã, bảo tài xế kéo bạt bịt bùng, đến điểm ấn định, miệng bằng tay tay bằng miệng, cứ việc nhảy xuống hòa tan vào làng mạc, đừng để dân chúng dòm ngó.

Tôi thả mắt nhìn chòng chọc vào đối tượng, làm thằng nhỏ cứng người, nó tưởng có lầm lỡ điều gì, trong vấn đề bảo mật. Tôi đọc được ý tưởng thằng em, vui vẻ ra dấu bằng cái phả tay, tạo chút yên chí cho chú Truyền Tin lành nghề, nhất là vào những ngày dầu sôi lửa bỏng:
– Biết chưa thằng cốt đột? Mặt mày có vẻ thông minh, nhưng sao chậm hiểu thế! Cứ việc thi hành như công điện dẫn chiếu, rồi sẽ thấy hiệu quả. Đừng ấm ớ hội tề gì nữa cả, làm tớ phải mắc công giải nghĩa.

Hắn ù chạy qua các barrack, miệng ỏm tỏi như gọi đò giữa bến vắng, nghe muốn inh tai nhức óc, nhằm báo động cho từng Thẩm Quyền, để mỗi gia đình tự lo liệu, nhất là nhận báo cáo khả năng tham chiến:
– Thường Vụ! Ông già mắc dịch trốn tiệt nơi nào, lo đi “bắt cái nước” chưa về là chắc, đừng trách mai này đơn vị xui xẻo tận mạt.

Thượng Sĩ Thường Vụ lù lù từ trong hành lang đi ra, lon bia trên tay, vẻ bất bình khi chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác đang mặn nồng tình Chiến Hữu, lại nghe ba lô chuẩn bị lên vai, lão già người miền Trung, hút Cẩm Lệ luôn miệng, cầm cây ba toong đằng hắng:
– Có gì mà rối lên hả thằng chết bầm? Đánh tới đánh lui như chuyện dài nhân dân tự vệ, riết rồi cũng giống như những ngày qua. Mày cứ việc thông báo cho các Thẩm Quyền Bạch Mã, Mãnh Hổ và Thần Ưng, trước là cầm chân con cái, ứng chiến tại chỗ, rồi sau hạ hồi phân giải, tuần tự mà làm theo kế hoạch.

Những chiếc GMC mầu ô liu ra khỏi doanh trại, tiến về cánh đồng Hoài Tân, chạy qua trường Tiểu Học nằm lẻ loi trên Quốc Lộ I, rồi len lỏi vào rừng dừa bạt ngàn. Làng Trung Lương hoàng hôn đến sớm hơn những vùng ngoại ô khác, chỉ vì dừa cao chi chít, những mái nhà tranh sẫm mầu, hạn chế ánh sáng phần nào. Tôi không ngớt lo lắng cho đơn vị, vừa ngán địch phục kích dọc đường, vừa sợ dân điềm chỉ, cầu mong những chiếc quân xa làm nhiệm vụ, an toàn đến sân vận động, là hoàn thành cuộc di quân, vào phần đất của ông Quận Trưởng, quận Hoài Nhơn. Dĩ nhiên, ông cũng được thông báo, sẽ có một đơn vị vào tiếp tay, nhưng tôi vẫn chưa liên lạc hàng ngang được, chờ ổn định con cái trước đã. Nhất là ban 3 hành quân của Chi Khu, đang bấn loạn tinh thần, trước tình hình địch trong mấy ngày qua. Nhưng thiết tưởng, có kẻ lãnh đạn, chịu đòn, thay vì con cái ông, mà còn em chả… em chả… gì nữa.

Thành phố Bồng Sơn không còn rộn rịp như từng đêm thao thức, dưới những ngọn đèn neon chớp nháy, đón lính ăn khuya nghe nhạc, nhậu nhẹt lai rai, âm hưởng chiến tranh đang bao trùm lên từng gương mặt, của người dân đủ mọi ngành nghề, hớt hơ hớt hãi như đỉa phải vôi.

Đứa con đầu của Trinh Sát vào đội hình tấn công, chạm súng ngay, lối bắn ào ạt như thế, đã cho tôi có khái niệm chiến trường đi đến hồi quyết liệt, lập tức giục mấy thằng con còn lại bọc cạnh sườn, tiến lên như vũ bão, vừa yểm trợ quân bạn, vừa uy hiếp tinh thần địch vào lúc đầu. Kinh nghiệm đã cho ta bài học xương máu, trên mọi chiến trường, hình thái nào cũng tương tự như thế, không để chúng trở tay, trong lúc tao ngộ chiến. Tiếng súng tạm yên, trả lại màn đêm nặng nề, qua báo cáo sơ khởi, thằng Bạch Mã giọng hí hửng:
– Trình Đại Bàng, bên mình không hề hấn gì, may quá, trời ỉa trên đầu trên cổ, không đứa nào đi phép dài hạn, cũng không đứa nào ngồi, nằm! Đứa con tuyến đầu làm phép rửa tội tám thằng, nhặt được 5 cây củi, một Cộng Đồng, hình như ngựa trời phòng không thì phải, chẳng hiểu mình chạm trán với cấp số gì đây hả ông thầy? Toàn bộ còn lại chúng nhỏm đít rời vùng, kéo về hướng Thiết Đính, chẳng biết mưu đồ kế tiếp, nhưng dù gì mình cũng phải lập tuyến phòng thủ khoảnh khắc, e bị cường tập trong chốc lát, một khi chúng điều nghiên trận mạc, cũng như biết rõ quân số ta, chừng đó bất kể lưới lửa. Y như dự đoán, chừng mười phút sau, chúng lại đâm đầu làm lũ thiêu thân thấy ánh đèn, xin được nạp mạng một lần nữa, như lời thề sinh Bắc tử Nam, là hoàn thành chúc thư phủi tay của họ Hồ.

Ngồi lắc lư trên chiếc nón sắt, mở đèn mắt mèo, của chiếc pin quéo nhà binh, nhìn tấm bản đồ, nghĩ đến hình thái trận mạc, vừa ước tính địch phản công, vừa lo sợ những đứa con của ông Quận bảo vệ vòng đai, giật mình bắn sảng. Địch, bạn là hai mối lo không kém, vì chưa liên lạc được với Địa Phương Quân, Liên Đội 214 phòng thủ quận đường, thêm những đứa con rải rác trong vùng, đang bằng mọi cách tìm về Thị Trấn Bồng Sơn, may ra không bị cô lập và an toàn hơn các làng hẻo lánh, khi chúng mất liên lạc với các cấp chỉ huy trực tiếp.

Địch đổi hướng tiến, kỳ này chúng đi dọc con đường đất đỏ, nhằm đưa quân vào sân vận động, phía Tây thành phố, nhưng đã lọt vào dự định của ta, thằng Thần Ưng gồm những tay sát thủ lẫy lừng của đơn vị, mượn danh Cha Xứ xức dầu không còn một mén, nhặt được 4 cây củi nhỏ. Hiện giờ chúng khựng lại, co giò chạy về hướng nhà cô mụ Xuân, mình không dám đuổi theo, sợ quá đà, còn e bị điệu hổ ly sơn nữa. Vả lại, gia đình Trinh Sát “mình ên” chứ còn ai nương tựa, chừng đó nếu phải trúng mánh của chúng, dở khóc dở cười, biết lấy ai gỡ ra nùi tóc rối.

Địch chưa chịu dứt bỏ ý định phiêu lưu mạo hiểm, thọc một cánh quân khác vô chùa, nhằm đẩy đặc công và hộ tống phòng không vào phố, nhằm kiểm soát không lưu của ta, nhưng Bồng Sơn là quê hương thứ hai, cho nên hầu hết Trinh Sát biết rành về địa thế, ngõ ngách nào cũng quen nhẵn, muốn giữ thành phố ấy, làm sao bỏ quên đoạn đường sinh tử, dẫn vào trái tim thị trấn. Mấy đứa con của Mãnh Hổ âm thầm theo dõi sát nút, chợt thấy những tấm bia thịt lù lù, không khác chuối dâng cho cưởng, đợi đến gần tí nữa, lập tức bấm mìn claymore, tiếng nổ nghe nhức nhối, rung động cả góc làng Trung Lương. Đặc biệt không có phát súng nào pha trộn, đúng như dự định đã từng giao hẹn, một khi chúng biển người, làm chuyện điên rồ thí quân như cỏ rác, mưu cầu hoàn thành công tác giành dân chiếm đất, thì mình chơi loại giết người vô hình, để khỏi bị phát giác, mười chọi một không chột sẽ què! Khôn ngoan là ở chỗ đó.

Chưa thấy thằng em báo cáo gì hết, tôi một phen lên ruột, chỉ sợ chúng lấy thịt đè người, qua mặt những tay súng coi trời bằng vung, trong lòng nóng như thiêu đốt, gọi chú Truyền Tin nhảy qua tần số đặc biệt trong trường hợp bất trắc. Quả thật, máy PRC25 của đứa con bị giao thoa, lũ ma đầu chen vào phá bỉnh, làm mình báo cáo điều gì, cũng e tai vách mạch rừng, muốn bảo mật trên con đường mòn hành hiệp, đành im hơi lặng tiếng, rồi rủ nhau đi qua tần số khác. Thế là an toàn, chẳng còn bị nhiễu âm và chọc ghẹo, nghe chướng tai gai mắt.

Tôi không quên ra lệnh cho một đứa con nhỏ trực chỉ bờ sông Lại Giang, tạt ngang chùa Sư Nữ, chẳng để chúng lợi dụng cửa thiền làm bức bình phong, chừng đó tiến, thối lưỡng nan.

Tiên đoán không sai, chúng đưa đội quân khá hùng hậu, mong hốt cốt bọn Ngụy cứng đầu, còn nỗ lực chính đột nhập phía sau Quận. Thế là điểm và diện đã lộ, nhưng đứa con thằng Mãnh Hổ nhanh chân hơn, đến đó tự hồi nào, ngồi chờ sung rụng từ lâu, chuẩn bị đâu vào đó, lỗ chiếu môn qua đỉnh đầu ruồi, như ngày tập bắn ở quân trường. Không gì sướng hơn bằng mình làm chủ chiến trường, cứ thế đập củ sả trên đầu những con chó điên, chẳng mảy may thương tiếc, nhưng chúng cũng say men trận mạc, gồng mình ào ạt tấn công một lần nữa, hành động một mãnh thú trước khi giãy chết. Nhưng Trinh Sát là những con gà nòi đá độ, đã ra quân trên mọi trường đá, dễ gì chào thua những anh chàng nhà quê, miệt vườn! Trung Sĩ Thọ cho cây đại lên bắn đỏ nòng, những con thiêu thân chầu bác chưa kịp ngáp, còn biết bao thằng bị thương nằm rên la, xin được cứu mạng, tội nghiệp có thằng miệng còn nhai búng cơm chưa kịp nuốt.

Giờ này không còn nói đến “củi đuốc” nữa, chết chóc bao nhiêu kệ bố chúng, cũng chẳng cần đếm xác làm gì cho bận tâm, miễn sao mình bình quân hơn thắng trận, còn bọn nuôi mộng giải phóng thì “phỏng giái” thế thôi! Chịu khó ở đó mà than với khóc. Chính gia đình chúng ta cũng bấn xúc xích, nếu phải bị “mèo cào, kiến cắn” trong giờ phút này, vấn nạn tản thương không còn ưu tiên như thường lệ.

Biết thế nào Bồng Sơn không chóng thì chầy cũng bị tràn ngập, một Thị Trấn rộng lớn như vậy, Địa Phương Quân đã rã ngũ, ông Quận Trưởng những tưởng con cái ông, giữ vững được những ngọn đồi chiến lược bên kia sông Lại Giang, là ấm lòng chiến sĩ, một khi quan niệm trung tâm quyền lực của Chi Khu vẫn còn hiện diện, thế cho nên chết oan bằng một trái B40, khi ông muốn đích thân quan sát ngọn cầu huyết mạch Bồng Sơn còn, mất.

Địa Phương Quân như rắn đã không còn đầu, nhưng gia đình tôi vẫn chưa hề nao núng, còn nước còn tát. Tôi quyết định lập tuyến phỏng thủ mới, kéo toàn bộ về giữ vững thành phố Bồng Sơn, chọn những cao ốc vừa có thể quan sát, vừa ghìm súng bắn sẻ, một mặt cho Trung Úy Thắng dẫn cả Trung Đội thiện chiến mở đường máu, vượt qua trường Trung Học Tăng Bạt Hổ, bắt tay với Đại Úy Trần Ngọc Anh của Tiểu Đoàn 4 từ Trung Đoàn viện binh. Súng nổ rộ ngay trạm y tế, Trung Úy Nguyễn Chính Thắng, một con hùm xám của Trinh Sát 40 im hơi lặng tiếng. Tôi réo muốn tắt hơi trên làn sóng điện, không tránh khỏi bùi ngùi khi nghĩ đến mất Thắng, đứa em xuất thân từ lò Thiếu Sinh Quân, buồn vui với định mệnh, sống vô gia cư, chết vô địa táng, cả đời dính liền với đơn vị, sau những ngày hành quân, 3 đồng 4 điếu Rubi, đàn ca bên ly rượu, làm cái bang bốn túi mút mùa, thậm chí lương tháng cũng bán cho mụ chủ câu lạc bộ Trung Đoàn, làm tên lao công đào binh đúng nghĩa, chẳng bao giờ thấy phát ngân viên hỏi thăm sức khoẻ.

Mặt trời lưng chừng, một sự im lặng rợn người, hoá ra bầu đoàn thê tử của thằng Sao Vàng âm thầm di quân sát phố, chờ đánh cú chót rửa mặt đêm qua, chứ dễ gì rút lui, khi miếng mồi Bồng Sơn đã làm mờ mắt bọn Chính Quy, đói khát lâu ngày và mơ một giấc mơ giải phóng.

Tôi ngồi trên sân thượng của nhà thuốc Tây, liên lạc trực tiếp với Mặt Trời Phó, tôi cả quyết như hai với là bốn, sẽ ra sức giữ Bồng Sơn ít ra tối đêm nay, nếu có tiếp tế đạn dược đầy đủ, lương thực chả cần vì nhà dân để lại trong lúc lánh nạn, mình trưng dụng cho qua lúc ngặt nghèo, chắc không đến nỗi nào dị nghị thổ phỉ.

Chiếc trực thăng C&C quần đi quần lại ở độ cao an toàn, có vẻ tiếc rẻ thằng đàn em một thời ấm lạnh trên mọi chiến trường có nhau. Trung Tá Đinh Văn Mễ cũng khoá 16 Võ Bị, ông anh cả của đơn vị cũ, lần đầu nghe tiếng uất ức của kẻ bị trói tay vì một sai lầm của người Đơn Vị Trưởng, đã hoành xe bắt pháo cách sao, mà đem đứa con ruột của mình, đi làm con ghẻ cho người ta, trong lúc gia đình đại tang, hậu cứ Trung Đoàn toàn ngành nghề và đui què mẻ sứt, không có ai làm kẻ mối giềng, muốn trở tay cũng chẳng còn kịp. Khi chiến trường đã hứa hẹn một mất một còn, muốn tử thủ cũng cần đến những quân nhân có máu mặt, kinh nghiệm xương máu, cũng chưa chắc đã giữ vững trên tuyến phòng thủ, khi thế địch bẻ bắp, chẻ tre.

Chiếc trực thăng lại một lần nữa, mở vòng bay rộng hơn, có lẽ cũng thương cảm một Triệu Tử Long giữa vòng vây chăng? Tôi nghẹn ngào không vì hèn nhát, mà giận thiếu điều mửa máu: tại sao đem một đơn vị thiện nghệ, giao cho ông Quận chưa biết điều quân ra sao, vì hai hệ thống khác nhau. Vẫn hiểu ông là Sĩ Quan Hiện Dịch đó, nhưng chỉ huy diện địa khác với lối đánh của Chủ Lực Quân. Vả lại, lính dưới trướng của ông, mà ông chưa giữ được, thì làm sao điều động một đơn vị, nằm ngoài tầm tay thưởng phạt, nhất là trong lúc bình diện chiến trường ung thối từ hạ tầng cơ sở, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân không còn Sĩ Quan chỉ huy vào giờ cuối.

Tôi cố bám trên những nhà lầu đánh nhau bằng thủ thuật bắn tỉa với lũ đặc công đã lọt vào yếu điểm, tác chiến trong thành phố muốn chảy máu con mắt, mới giành giật được con đường, góc nhà, cửa tiệm. Giờ này tôi chỉ còn đơn vị trừ, những tay làm bàn hảo hán, đã theo Trung Úy Thắng mở một sinh lộ cho đơn vị, chưa biết âm hao. Đánh nhau tới nửa đêm, Trinh Sát đã không còn đạn dược, lựu đạn chẳng có một trái, làm sao giết tập thể khi chúng biển người, đạn cộng đồng không còn một dây, cây Đại Liên M 60 đành thả xuống giếng, M72 phải giựt chốt an toàn vất đi, vì chiến trường chưa có xe tăng xuất hiện, mà mang theo kềnh càng, làm sao thoát thân. Ý nghĩ tìm cái sống trong cõi chết nhọc nhằn thật đó, nhưng không còn cách nào hơn. Thôi thì anh hùng trả thù mười năm sau chưa muộn, thua keo này bày keo khác. Cúi đầu hổ thẹn chỉ vì không giữ được thành phố, để cùng người dân thị trấn Bồng Sơn tay bắt mặt mừng, sau những thời gian thành phố này đứng lên ngồi xuống… không biết bao nhiêu lần.

Phần Trinh Sát 40 đã gây điêu đứng cho một đơn vị lớn của Bộ Đội miền Bắc là đủ rồi, trong khi mình chưa hề hấn gì. Vấn đề Trung Úy Thắng sa cơ, chỉ là ước đoán năm mươi, năm mươi!

Trung Sĩ Ẩn tổ sư của ngành Viễn Thám, leo núi, tuột dây, rành rẽ sáu câu, nghề của chàng như ăn cơm bữa làm sao quên được, lom khom tránh đôi mắt của loài cú vọ, mò đến rỉ tai:
– Ông Thầy ơi, ra lệnh con cái tuột xuống lầu, ra bờ sông Lại Giang chuồn êm, trong khi chúng mờ mắt hôi của. Em là người chấp nhận hy sinh, làm con vật tế thần, rủi như chúng dàn quân ở dưới chờ sẵn, cũng đành chịu chứ biết sao hơn, có thế mới đóng vai Lê Lai liều mình cứu chúa, mở một sinh lộ cho đơn vị đang bị giam hãm hình hài giữa vòng vây sinh tử.

Tôi suy đi… nghĩ lại làm nhiều lần, tiếc quá, những gì có mà bỏ đi thì dễ, nhưng tái chiếm, phải trả một giá bằng xương máu anh em mắc mỏ lắm. Nhưng làm sao đây? Nghĩ lại viện binh thì đào đâu ra để có, còn đánh nhau mà súng không một viên đạn trên nòng, có khác nào cục tật mang vào thân, trước sau gì cũng bẩm ông con ở bụi này, chừng đó nhục nhã lắm. Chết đâu không chết, chết lỗ chân trâu, mới đau như hoạn!

Cuối cùng, tôi cũng phải quyết định, chọn giải pháp chuồn êm là thượng sách, dĩ đào vi qúy!

Thế là toàn bộ còn lại an toàn, tuột xuống từ những cao ốc, phút chốc đội hình con kiến, âm thầm lội trên con sông Lại Giang, làm “lính thủy đánh bộ”, nhưng tính nào tật nấy, vẫn nhoẻn miệng cười, dù gian nan hãy còn bủa vây trăm nẻo, một khi chúng phát giác, cũng sẽ là những thây ma trôi sông lạc chợ, âm thầm theo vận nước.

Dòng phù sa lặng lờ trôi, thây người nổi lềnh bềnh, chúng tôi phải rúc vào xác chết, có mấy thằng em ngoi đầu giữa đám lục bình từ hai nguồn Kim Sơn và An Lão đổ ra sông Lại, cứ thế bập phà lội dọc đến Hoài Hương, dừng lại, leo lên bờ, nhẹ bước giữa cánh đồng Núi Kho, lối về Chợ Bộng. Vừa đi vừa cảnh giác bọn chủ lực địa phương thừa nước đục thả câu. Có lúc ngồi xuống nghe động tĩnh, ngoái nhìn những ngọn đuốc của đoàn người a dua, đã được bọn nằm vùng huy động lực lượng dân công từ làng xã về Bồng Sơn hôi của, mừng chiến thắng.

Tôi bật cười nho nhỏ, chiến thắng mà không bắt được một thằng Trinh Sát nào cả, làm sao nghiền xương đốt xác chúng? Hoá ra mấy ngày hôm nay đánh với lũ âm binh, thần thông biến hoá sao!

Bốn ngày không có chút gì trong bụng, nhưng đoàn tụ với gia đình mẹ là niềm vui lớn, dù chưa qua đại nạn:

Trinh Sát của mình vẫn còn đây.
Lẹ làng hơn cả trở bàn tay.
Nhớ đêm giành giật đồi Đệ Đức.
Pháo rót ra phang tối mặt mày.

Nguyễn thế Giác