NỖI LÒNG CỦA BÁC PHONG-TT-Thái An

NỖI LÒNG CỦA BÁC PHONG
TT-Thái An
          Bác Phong và nhiều đảng viên trong nhóm Đại Việt kháng Pháp, bị Việt Minh đánh đuổi chạy qua Tàu từ năm 1947.  Khi Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc năm 1949, bác và vài bạn đồng chí lại theo  đoàn tàu của họ Tưởng qua Đài Loan từ đấy.
          Vài người trong đám này may mắn lấy được vợ Việt, vài người lấy vợ người bản xứ (Đài Loan).  Riêng bác, khoảng ngăm 1958, có người giới thiệu cho bác một cô người Bắc di cư vào Sài Gòn năm 1954.  Bác cũng đã xin nghỉ làm mươi ngày để về Việt Nam xem mắt cô kia.  Nhưng khi gặp mặt cô ấy, bác hơi thất vọng nên làm thinh bỏ về Đài Loan.  Sau này có người hỏi tại sao bác không thích cô ấy.  Bác chỉ bảo vì cô ấy là gái quê, ăn mặc nâu sòng và còn ăn trầu.  
          Gái quê thì cũng tốt thôi, bác không muốn cô ấy ăn mặc theo lối quê và ăn trầu thì bảo cô ấy đổi ra tân thời và bỏ ăn trầu đâu khó gì.  Nhưng bác chỉ cười.
          Từ đó, bác thản nhiên sống đời độc thân.   Bác có vệc làm trong một hãng xuất nhập cảng ở Đài Bắc, lương cao, đời sống ổn định.  Nếu bác lấy vợ, bác có thể nuôi vợ con dễ dàng, không cần để vợ ra ngoài làm việc.  Có người làm mai cho bác một phụ nữ địa phương nhưng bác lắc đầu và nói “Khỏi cần”.
          Đến những năm 1970 trở đi mới có một số sinh viên miền Nam Việt Nam được chánh phủ Đài Loan cấp học bổng toàn phần cho du học xứ này.  Thế là các bác cùng đợt bác Phong có thêm người đồng hương để họp mặt cuối năm ở tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại Đài Bắc. 
          Sau ba mươi tháng Tư năm 1975, tòa đại sứ VNCH đóng cửa.  Một số sinh viên có người thân ở miền Nam Việt Nam chạy thoát ra nước ngoài, bảo lãnh cho họ đi đoàn tụ.  Số ít ỏi còn lại vẫn giữ liên lạc với các bác.  Sau này vợ chồng anh chị Chiếu dọn vào ở chung với bác Phong.  Anh Chiếu qua Đài Loan du học chương trình thạc sỹ, vừa ra trường, có được việc làm tại Đài Bắc.  Chị Chiếu được theo chồng qua Đài Loan.  Chị Chiếu nấu cơm tháng cho bác luôn.  Như thế bác khỏi cần phải ghé hàng cơm mỗi ngày nữa.
          Một số sinh viên chưa ra trường còn ở lại trong túc xá.  Họ ăn cơm chỉ trong trường.  Cuối tuần thì ra ngoài ăn và nhậu chút đỉnh với nhau.  Dần dà họ quen thêm vài đồng hương Việt Nam chạy tị nạn đến Đài Loan, đang chờ đi định cư ở nước khác.
          Khoảng năm 1977, có người mách với họ rằng cô chủ nhân của một tiệm uốn tóc nằm trên đường Đinh Châu gần trường Đài Loan Đại Học là người Việt Nam.  Tò mò, vài anh sinh viên rủ nhau đi kiếm tiệm này. 
          Bước vào tiệm, thấy cô chủ đang ở không và hai cô thợ đang có khách.  Các anh ngập ngừng hỏi thăm bằng tiếng Phổ Thông
Chúng tôi nghe nói cô từ Việt Nam qua đây phải không?
Cô chủ vui vẻ nói lại bằng tiếng Việt:
-Phải!  Tôi là người Việt Nam.  Thế các anh là Hoa Kiều Việt Nam hay là người Việt?
Thế là hai bên nói tiếng Việt với nhau thoải mái.  Kể từ đấy, cứ đến thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ Nhật, tiệm của chị Đoan lúc nào cũng đầy khách Việt Nam, họ là những sinh viên còn học trong trường Đài Đại, đến để ăn uống và nhậu chứ không phải để làm tóc.
Chị Đoan hiếu khách.  Cứ đến bữa ăn là chị và một trong hai cô thợ làm tóc vào bếp nấu cơm cho họ và cho cả mấy người sinh viên này.
Qua lời kể của chị Đoan, chị rời Sài Gòn qua Nhật học nghề uốn tóc, trang điểm và làm mặt từ năm 1970.  Học xong, ở lại Nhật vài năm rồi chị qua Đài Loan xin ở lại.  Chị mở tiệm này khoảng nửa năm thôi.  Chị Đoan dáng người nhỏ nhắn.  Gương mặt dễ nhìn và nụ cười luôn nở trên môi.  Khi chị cười, để lộ hàm răng trắng bóng đều đặn.  Năm 1977, chị khoảng ba mươi hai tuổi.  Lớn hơn đám sinh viên khoảng bảy đến mười tuổi nên ai cũng gọi chị là “chị”.
Chị Đoan nói năng thủng thỉnh, đôi khi có vẻ yểu điệu hay ỏn ẻn nữa.   Nhưng chị cũng biết khôi hài.  Chị có vẻ vô tư như con gái mười lăm.  Nói chung, chị thuộc dạng người hiền lành, nhẹ nhàng và nhiều nữ tính. 
Đám sinh viên đặt cho chị cái tên thân mật “Cô Ký Điệu”.   Gọi chị là Cô Ký Điệu cũng phải vì mỗi khi rủ chị ra ngoài ăn, dù là đi ăn ở tiệm gần trường Đài Đại, đi bộ độ mười lăm phút thôi, chị cũng phải thay đổi xiêm y, dồi phấn thoa son nhè nhẹ, nhờ một cô thợ chải bới lại mái tóc .  Sau đó chị đeo ví, mang giầy cao gót, và mang theo cái quạt xếp để cầm tay.  Không bao giờ chị ra đường mà không có cái quạt này.  Chị hay mặc váy dài che hết chân, trên mặc cái áo kiểu tay ngắn.  Vào mùa thu, đông hay xuân, trời se se lạnh, chị quấn thêm cái khăn quàng cổ.
 Thời gian chị trang điểm tước khi ra đường ít nhất là một giờ.  Vì thế các chàng sinh viên hay nói đùa rằng muốn rủ chị Đoan đi ăn thì phài gọi điện thoại cho chị trừ hao trước một tiếng để chị sửa soạn.
 Họ hay thắc mắc với nhau rằng sao chị Đoan hiền như thế mà có thể ở Nhật và Đài Loan một mình trong nhiều năm. 
Gia đình chị Đoan di cư từ Bắc vào Nam năm 1954.  Mẹ ruột chị mất vài năm sau đó.  Cha chị tục huyền với người khác và sanh thêm nhiều con.  Sau 1975, cha và kế mẫu chị và các em vượt biên chạy được qua Mỹ.  Chị có một người anh ruột cùng cha cùng mẹ.
Chị bầy ảnh chân dung người mẹ quá cố trên kệ.  Ảnh do anh chị vẽ bằng bút chì, nhỏ khoảng 17 cm x 20 cm.   Người đàn bà trong tranh mặc áo dài, vấn khăn kiểu Bắc.  Chị hãnh diện về tài vẽ của anh chị lắm, chị luôn bảo rằng đó là vẽ “truyền thần”.  Anh chị tuy không phải là họa sỹ, nhưng có khiếu vẽ.  Chị cũng hãnh diện vì anh chị trước 1975 là Đại Úy nhẩy dù trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Vợ chồng anh Chiếu và bác Phong ở cách trường Đài Đại 15 phút ngồi xe.  Anh chị Chiếu được đám sinh viên này dắt đến tiệm chị Đoan để giới thiệu.
Chị Chiếu vừa gặp chị Đoan vài lần thì nẩy sinh ý định giới thiệu chị Đoan cho bác Phong.  Anh Chiếu bác bỏ ý định này, vì thấy tuổi tác giữa bác Phong và chị Đoan quá so le, bác hơn chị trên hai mươi tuổi.  Nhưng chị Chiếu quả quyết thế nào cũng được vì chị Đoan đã ngoài ba mươi, khó lấy chồng lắm rồi.  Còn bác Phong tuy ngoài năm mươi nhưng còn khỏe mạnh, kinh tế vững vàng.  Lấy bác, chị Đoan được bảo đảm tài chánh suốt đời.  Bác có chết sớm thì cũng có số tiền để lại cho chị dưỡng già.
Thế là một ngày đẹp trời, bác Phong theo anh chị Chiếu đến tiệm chị Đoan.
Vì được chị Chiếu nói trước nên bác Phong để ý quan sát chị Đoan.  Ngồi chơi một lúc, bác Phong mở lời mời chị Đoan và vợ chồng anh Chiếu đi ăn tiệm.  Bác chịu khó ngồi chờ chị trang điểm, thay đổi trang phục cả giờ. 
Sau hôm đó, bác Phong vui hẳn ra và nói với vợ chồng anh Chiếu rằng bác rất ưng ý chị Đoan.   Chị Đoan có lẽ là mẫu người lý tưởng của bác.  Vì chị biết điệu, biết làm dáng, biết nũng nịu và đi đứng khoan thai, nói năng nhẹ nhàng.    Đó là cái “kiểu cách” của các cô Hà Nội, con nhà gia giáo trước 1954.
Chị cũng biết cắm hoa theo kiểu Nhật vì suốt mấy năm ở Nhật chị tiếp thu được môn cắm hoa này, tiệm của chị lúc nào cũng có hoa tươi.
Thế là thứ Bẩy nào bác cũng rủ vợ chồng anh Chiếu đi thăm chị Đoan và mời chị đi ăn tối.   Chị Đoan không khước từ bao giờ.  Bác Phong vui ra mặt, dù đang ngồi làm việc trong sở, bác cũng nghĩ đến chị Đoan, bác gọi điện thoại cho chị Đoan hỏi thăm và chuyện trò cả nửa giờ. Chị Đoan luôn vui vẻ trả lời điện thoại của bác.
Bác chưa vào quốc tịch Đài Loan vì không có ý mua nhà.  Nhưng nếu chị Đoan lấy bác, bác sẽ đưa tiền cho chị Đoan mua nhà, vì chị Đoan đã nhập tịch Đài Loan.  Như thế cuộc đời còn lại của bác sẽ hạnh phúc bên người vợ đồng hương mà bác ưng ý.  Bác không ngần ngại nói cho anh chị Chiếu biết kế hoạch lâu dài của bác.  Chị Chiếu thấy hai bên có vẻ ưng nhau rồi nên mắng yêu anh Chiếu: “Đó, em đã nói với anh rồi, thế nào chị Đoan cũng chịu bác Phong mà!  Vì ở đây đâu có anh Việt Nam nào lớn hơn chị ấy nữa mà chờ.”
Kéo dài được gần hai tháng chị Đoan đi ăn với bác Phong.  Một hôm mấy sinh viên lại dẫn đến tiệm chị Đoan một chàng Việt Nam trạc tuổi chị, đó là anh Kiên.  Một cựu Đại Úy Hải Quân của miền Nam Việt Nam trước 1975. 
Ngày 30 tháng Tư, 1975, sau khi nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng cộng sản Bắc Việt, anh Kiên toan trở về nhà với vợ, nhưng anh bị nhiều người khác cưỡng bách lái tàu rời Việt Nam.  Tàu nhỏ thôi, nên ra giữa biển thì gặp tàu Đài Loan cứu vớt đem về Đài Loan, đưa vào trại tị nạn. 
Những người khác xin đi Mỹ tị nạn.  Riêng anh Kiên đan giận Mỹ sôi sục vì bỏ rơi miền Nam Việt Nam nên nhất định không đi Mỹ.  Vì thế chánh phủ Đài Loan cho anh giấy cư trú, đưa anh về làm việc ở cảng Cơ Long. Công việc này chỉ dành riêng cho cựu chiến binh của Đài Loan, người ngoài khó xin được vì làm việc như công chức, lương cao, có nhiều quyền lợi.  Họ chỉ cho anh lái xe cẩu, cẩu từng khối xi măng khổng lồ bỏ xuống ven biển để ngăn cho bờ không bị nước biển soi mòn.  
Cứ hai tuần lãnh lương một lần, lãnh xong, thứ Bảy đó anh lên xe buýt trực chỉ Đài Bắc đến trường Đài Đại rủ mấy sinh viên Việt Nam đi nhậu với anh.  Anh bao hết cả bàn, nhậu từ thứ Bảy sang đến Chủ Nhật, nhậu hết tiền thì tờ mờ sáng thứ Hai anh đón xe buýt về Cơ Long để đi làm tiếp.  Mấy anh em đặt tên cho đám nhậu là “gánh hát” do ông bầu Kiên điều khiển.
Anh Kiên tâm sự rằng vừa cưới vợ được sáu tháng thì chạy.  Vợ chồng anh chưa có con.  Anh định trở về nhà với vợ chứ không muốn chạy thế này.  Ai cũng khuyên anh vào quốc tịch Đài Loan để bảo lãnh cho vợ qua.  Nhưng anh nhất định không viết thư cho mẹ hay vợ, vì anh muốn họ nghĩ rằng anh đã chết rồi, để họ tự lo, không cần chờ đợi hay trông mong anh nữa.
Nhưng sau khi rời trại tị nạn, ở lại Đài Loan một mình, anh cảm thấy lạc lõng giữa dòng người lạ.  Anh sống không mục đích, làm việc có tiền thì nhậu cho hết.  Nhưng anh cũng biết rõ rằng một ngày nào đó đám sinh viên này ra trường, họ sẽ kiếm việc làm, lập gia đình và chẳng còn ai ở không để nhậu với anh nữa.  Vì thế trong thâm tâm anh cầu mong sao anh chóng sớm bị ma men vật chết.
Anh Kiên theo ba anh sinh viên bước vào tiệm chị Đoan.  Chị Đoan tiếp khách mới niềm nở và mời khách ở lại ăn tối.   Chờ đến giờ tiệm đóng cửa, anh Kiên đưa tiền cho mấy anh kia đi mua bia về nhậu, khỏi cần ra ngoài quán nhậu.  Nhậu đến khuya thì mấy anh em leo lên cái gác lửng ngủ, nếu không đủ chỗ thì trưng dụng luôn cái ghế trong phòng làm mặt để ngủ.
Từ hôm đó trở đi, anh Kiên không rủ mấy sinh viên ra quán nhậu mà rủ họ đến thẳng tiệm chị Đoan để nhậu ở đó. 
Từ khi quen anh Kiên, chị Đoan lơ là bác Phong.  Bác gọi điện thoại, chị ngại bắc máy lắm.  Chị dặn mấy cô thợ nói với bác rằng chị vừa bước ra ngoài hay chị đang có khách.  Nhiều  lần gọi chị Đoan mà không gặp, bác tâm sự với chị Chiếu.  Chị Chiếu tìm hiểu thì biết rằng anh Kiên đang theo đuổi chị Đoan và hai bên đang phải lòng nhau.
Bác Phong buồn ra mặt, vốn dĩ bác đã ít nói, giờ còn im lìm hơn.  Ai cũng ái ngại cho bác, ngoài năm mươi tuổi mới gặp được người ưng ý, mới có ý định lập gia đình thì đùng một cái anh Kiên xuất hiện.  Thế là mọi dự tính cho tương lai của bác và chị Đoan sụp đổ tức khắc.
Chị Chiếu kêu rêu với nhiều người rằng đáng lẽ chị Đoan chịu bác Phong rồi, nhưng vì mấy sinh viên kia giới thiệu anh Kiên cho chị Đoan nên chị Đoan chọn anh Kiên.  Mấy chàng sinh viên nghe thế thì bực bội lắm, vì họ không có ý mai mối gì cả, tự hai người ấy tiến tới với nhau thôi.
Nửa năm sau, chị Đoan và anh Kiên làm đám cưới.  Chị Đoan tự may áo dài cưới màu đỏ, tự làm khăn vòng dây đội đầu.  Họ đãi tiệc ở một tiệm ăn nhỏ gần trường Đài Đại.  Các sinh viên kéo nhau đi ăn cưới ông bầu gánh Kiên.  Họ tán với nhau rằng “Hèn gì, lần đầu tiên anh Kiên gặp chị Đoan, tao thấy ảnh có vẻ mắc cỡ, không dám ăn to nói lớn như thường ngày.  Chắc là anh Kiên bị tiếng sét ái tình ngay hôm đó.”
Sau đám cưới, chị Đoan đóng cửa tiệm theo anh Kiên về Cơ Long là nơi anh làm việc.  Từ đó “gánh hát” giải tán.  Vợ chồng anh Kiên chị Đoan biến mất luôn hơn sáu năm không liên lạc với anh em trên Đài Bắc. 
Một hôm anh Kiên đi ngang Đài Bắc, gặp lại một người trong gánh hát ngày xưa cố nài nỉ anh về nhà chơi.  Anh cho biết chị Đoan đã sanh một con trai, năm nay cháu vừa sáu tuổi.  Anh cho địa chỉ nhà ở Cơ Long để mọi người có thể xuống thăm.  Anh đã bỏ nhậu từ khi lấy chị Đoan. 
Anh và chị Đoan thuê nhà gần nơi anh làm, vừa để ở, vừa để mở tiệm uốn tóc.  Chị có vài cô học trò theo học nghề với chị.  Lương của anh dư sức nuôi vợ con, nhưng chị Đoan vẫn  muốn giữ nghề của mình. 
Hai anh chị có vẻ rất hạnh phúc.  Anh Kiên rất nhỏ nhẹ, từ tốn với vợ và con.  Chị Đoan vẫn nũng nịu với chồng.  Đứa con trai quá đẹp vì có nét mặt đẹp trai như bố và nước da trắng nõn của mẹ.  Nó cũng rất thông minh, lúc mới năm tuổi nó đã biết quan sát các loại xe chạy ngang trước nhà và vẽ lại chiếc xe buýt trên bảng đen, vẽ từng chi tiết, các cửa sổ, cửa lên xuống, các bậc thang lên xuống, các hàng ghế bên trong, và vẽ sắc nét, đẹp như tranh của người lớn vẽ. 
Chị Đoan luôn khoe rằng vì đó là đứa con của tình yêu nên nó xinh đẹp và thông minh tuyệt vời.  Có lẽ chị có mặc cảm là người đến sau nên sợ người ta không biết rằng anh Kiên rất yêu quý chị, vì thế ai đến chơi cũng phải chịu khó nghe chị nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc: “đó là đứa con của tình yêu.”
Chị Đoan cũng cho biết chị phải hỏi mãi anh Kiên mới cho chị địa chỉ nhà mẹ anh  ở một thành phố miền Trung, để chị liên lạc.  Kết quả mỹ mãn, mẹ anh Kiên và cả nhà mừng như chết đi sống lại khi hay tin anh còn sống và đã có vợ khác và có một đứa con trai.  Mẹ anh Kiên cũng báo tin rằng sau 30 tháng Tư, 1975, không thấy anh Kiên về nhà, vợ trước của anh Kiên cũng bỏ đi đâu mất và chẳng nghe tin tức gì nữa cả.  Mẹ anh Kiên cũng chụp ảnh cả nhà gửi ra cho chị Đoan và nhận chị là con dâu và con trai của anh Kiên và chị là cháu nội.
Trước khi gặp chị Đoan, anh Kiên chỉ muốn nhậu cho chết, anh chẳng thiết sống.  Nhưng khi gặp chị Đoan, anh biết mình cần một người đàn bà như chị, một người nhiều nữ tính, có nề nếp gia phong tốt, nói năng vui vẻ, nhẹ nhàng và chịu thương chịu khó.  Chị là người đàn bà mà anh muốn đi hết quãng đời còn lại với chị.  Đời sống có ý nghĩa hơn khi lưu vong xứ người mà có được người vợ đồng hương nết na như chị Đoan.
Riêng bác Phong, vài năm sau cũng nguôi ngoai nỗi buồn thất tình.  Vào một cái tết Nguyên Đán đến thăm một gia đình đồng hương, bác kể chuyện những cái tết ở Hà Nội xưa, khi bác còn trai trẻ.  Thời đó bác và vài anh bạn học hay rủ nhau đi xem hoa thủy tiên do các cô Hà Nội tỉa khéo thế nào mà họ canh đúng mùng một tết là nở hoa.  Bác bảo các cô hay bầy hoa thủy tiên ngay bên cửa sổ để các anh đi ngang qua nhìn vào là thấy ngay.  Các anh như bác thời đó nói đùa với nhau là “đi chấm điểm hoa thủy tiên xem hoa nhà nào đẹp nhất”.   Có lẽ ngày xưa đó bác Phong chưa có dịp hẹn hò với một cô Hà Nội nào, bác đã bỏ đi kháng chiến.  Nhưng hình ảnh của các cô tiểu thư Hà Thành vẫn còn trong ký ức của bác.  Vì thế, khi gặp chị Đoan, gợi cho bác hình ảnh xưa của Hà Nội nên bác phải lòng chị ngay.
Phần anh Kiên khi nhìn lại, lúc mới chạy ra khỏi Việt Nam, anh nhất định không đi Mỹ vì lúc đó anh còn giận Mỹ lắm.  Nhưng nhờ thế anh mới có cơ duyên gặp chị Đoan.  Anh nhận biết anh và chị Đoan thực sự có duyên làm vợ chồng với nhau.
Sau này, bố chị Đoan ở Mỹ đã bảo lãnh cho mẹ con chị và anh Kiên đi Mỹ.  Vợ Đoan đi đâu thì chồng Kiên theo đó.  Như thế có phải là anh Kiên phải ở lại Đài Loan để gặp chị Đoan và cưới chị làm vợ rồi mới đi Mỹ không chứ?
TT-Thái An
7/1/2018