
| Tiểu sử Văn thi sĩ Phong Châu- – Tên thật Hoàng Kim Châu Người gốc Huế. Sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt Cử nhân triết Đại Học Đà Lạt Viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Sinh hoạt Hướng Đạo: Từ 1955 tại Đạo Lâm Viên và các Đạo Vũng Tàu, Hoa Lư (Sài Gòn), Houston (Texas) Thành viên Ban Trầm Ca (Đà Lạt) 1965 Thành viên sáng lập Phong Trào Du Ca Việt Nam (1966) Tác phẩm (Tự ấn hành): 1/ NGUỒN THẬT (Thơ Hướng Đạo) 2018 2/ Trên Dòng Kỷ Niệm (Tuyển tập Thơ Văn, Ký sự…) 2022 Dự định ấn hành “Bên Lề Tám Mươi “ |




| Các tác phẩm Văn Xuôi ca tác giả Phong Châu ( Hoàng Kim Châu) Vui lòng nhấn vào các nhan đề sau để thưởng thức: 1. Truyện Ngắn: Những Chiếc Bánh Bao-Phong Châu 2. Tháng Ba Nhớ Quang Du Ca-Phong Châu 3. Chuyện Của Quang. Chưa Nói Hết…-Phong Châu 4. Mười Ba Trại Sinh-Phong Châu 5. Con Dốc Nhỏ Đưa Em Về Căn Gác Nhỏ – Phong Châu 6. Lại Nói Chuyện Tết-Phong Châu 7. UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN-Phong Châu 8. Thứ Sáu Đen-Phong Châu 9. Oan Khiên-Phong Châu 10. Nghiệt Oan-Phong Châu 11.Hồ Lung Linh-Phong Châu 12. Truyện Ngắn Vạt Nắng-Phong Châu 13. TÂM TÌNH 70 NĂM-Phong Châu-Trưởng Hoàng Kim Châu 14. Nhớ Trưởng – Nhà Văn Nhật Tiến-Phong Châu |




| Trang thơ của thi sĩ PHONG CHÂU-HOÀNG KIM CHÂU |
| vịnh bức dư đồ rách Nọ bức dư đồ thử đứng coi Sông sông núi núi khéo bia cười Biết bao lúc mới công vờn vẽ Sao đến bây giờ rách tả tơi Ấy trước ông cha mua để lại Mà nay con cháu lấy làm chơi Thôi thôi có trách chi đàn trẻ Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi Tản Đà 1921 |
| Bài họa của cụ Phan Bội Châu Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi Ta bồi cho chúng chị em coi Giận con cái đà hư như thế Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài Còn núi còn sông nhìn vẫn rõ Có hồ, có giấy dễ như chơi Vì chưng hồ, giấy ta chưa có Đành chịu ngồi trông rách tả tơi Phan Bội Châu 1927 |
| Phụng họa 1 Chúng bán còn đâu nữa mà bồi Chẳng còn lề giấy để đứng coi Công ơn tiên tổ từng vun vẽ Đất nước nay thành mảnh đồ chơi Phương Bắc âm u nhìn chẳng rõ Trời Nam mờ mịt khuất biển khơi Cũng tại hồ kia không phải bột Càng bồi càng rách nát tả tơi Phong Châu 2015 Bài họa 2 Càng bồi càng rách nát tả tơi Giang sơn chúng tưởng như đồ chơi Ngàn năm tiên tổ công gìn giữ Gìn giữ biên thùy đến biển khơi Ải Bắc đã giao cho tàu cộng Bờ Đông bán đứng cho hán nô Chín chín năm sau ai bồi nữa? Mất hết. Làm chi giấy với hồ! Phong Châu 2015 |
| tháng tư Tháng tư máu trào lên óc Tháng tư mưng mủ trong tim Tháng tư bỗng đầu bạc tóc Tháng tư oan khuất nỗi niềm Tháng tư sao đành súng gãy Tháng tư thành phố khăn tang Tháng tư buồn dòng lệ chảy Tháng tư vui nỗi cơ hàn Tháng tư ak dạo phố Tháng tư dã thú biết cười Tháng tư tự do xuống hố Tháng tư công lý chết tươi Tháng tư chồng vô tù ngục Tháng tư vợ đuổi vào rừng Tháng tư cơm khoai rủ mục Tháng tư mẹ nước mắt rưng Tháng tư tràn ra cửa biển Tháng tư giông tố trùng khơi Tháng tư hận ngày quốc biến Tháng tư vang điệu ru Hời… Phong Châu |
| chốn xưa Về chốn xưa. Hoa đào không nở Đồi thông xanh. Héo úa cả đời Giọt Mozart. Sương chiều rơi vội Hồ xuân phai. Khuất bóng mây trôi Chiều đợi mưa. Bên giòng suối nhỏ Mặt trời buồn. Nước cạn giòng khô Dấu phôi phai. Hồn anh bỏ ngõ Cơn gió lùa. Bờ trán nhấp nhô Cả một đời. Ngồi nghe gió hú Đỉnh cheo leo. Sương khói mịt mù Có một lần. Em qua nơi đó Để hồn sầu. Buốt giá thiên thu Phong Châu |

| thuở đà lạt Mỗi con dốc là một con đường Sáng qua chiều lại nắng tơ vương Áo vàng ai thoáng bay đầu ngõ Tơ tóc mây rừng thông ngát hương Lá rụng chiều phai cùng kỷ niệm Sỏi buồn lạc dấu nẻo công viên Em theo đường nắng chân hờ hững Mắt biếc như dòng trăng Suối Tiên Núi vẫn xanh và hồ vẫn xanh Sương rơi bờ cỏ lệ long lanh Nắng mai chưa vội hoa đào nở Thiêm thiếp mây hồng chợt biến nhanh Đã nhủ lòng thôi đừng nhớ nữa Ví dầu như sáng nắng chiều mưa Dấu xưa sỏi đá nay còn lạnh Em vẫn nghiêng dù đợi nắng trưa Phong Châu |

| về rừng Ta về rừng cũ ngó quanh Chim muông đã chết lá xanh chẳng còn Bây giờ đường thẳng xe bon Ngựa xe đã xóa dấu mòn lối xưa Xa rồi ngày cũ chiều mưa Áo vai lạnh giá tiễn đưa nhau về Chập chờn nhà cửa tứ bề Ngổn ngang gò đống cận kề tha ma Trở về ta lại nhìn ta Bình minh đã gọi bóng tà dương phai Trăm năm người cũ còn ai Rừng xưa đã mất dấu hài thanh xuân sương mù cali . sương mù đà lạt Buổi mai thức dậy lạnh sương mù Trời âm u lòng cũng âm u Môi khô như vỏ thông Đà lạt Tim úa như chiều rơi lá thu Dĩ vãng hồ xưa tiếng nguyệt cầm Cà phê trĩu giọt vỡ thanh âm Gót buồn cổ tích đêm hè phố Một thuở đi về vai lạnh căm Mây qua phố núi gọi mưa buồn Đôi hàng liễu rủ tóc lơi buông Em qua ngõ vắng vầng trăng khuất Ta đứng buồn theo chiều mưa tuôn Sương đẫm vai em tuổi học trò Ban mai đường trải mộng thơm tho Chiều về mây xám vương đầu núi Ta cùng em lỡ chuyện hẹn hò Đường lên dốc trải tình rêu phong Trăng treo đỉnh núi gió bềnh bồng Kỷ niệm tàn phai trên phiến đá Ta về vui giá lạnh mùa đông Sương Cali lạnh trời lâm viên Ngồi nghe gió nhắn gọi ưu phiền Gom trong trí nhớ trời đà lạt Thấp thoáng sương mù cõi non tiên Phong Châu |
| vịnh cái cầu ao Khen ai khéo đặt chiếc cầu ao Một mình một khoảnh giữa trời cao Hai miếng gỗ tươi bền biết mấy Một thanh sắt nguội chắc làm sao Ngày hạ phơi gan trong mưa nắng Đêm đông trải mật dưới trăng sao Năm tháng nổi chìm chung với “nước” Cùng nhau chia xẻ nỗi lao đao Phong Châu |
| Tháng Giêng Tháng giêng trời xanh bỏ ngõ Gọi mời hoa bướm vào chơi Sắc màu xanh vàng tím đỏ Em hồng má thắm đôi môi Tháng giêng thì thầm gọi gió Sang mùa vần vũ trùng khơi Có loài chim di bé nhỏ Vật vờ đôi cánh tả tơi Tháng giêng người đi ra biển Nhớ về dĩ vãng khôn nguôi Xa nhau cuối mùa chinh chiến Ai dòng ngược ai nẻo xuôi Tháng giêng đứng bên bờ núi Mỏi cổ trông về cố hương Đâu rồi quê cha đất tổ Xa tắp ở tận mười phương Tháng giêng đi vào phố chợ Nhớ mẹ dặm miếng trầu cau Trĩu lưng đã dài năm tháng Chập chùng bãi cát nương dâu Tháng giêng vọng hồn tử sĩ Bây giờ hồn phách nơi đâu Có nghe trùng trùng sông núi Quê hương gánh nặng nỗi sầu Đầu Năm 24 Đầu năn 24. Tuổi tám mươi Chỉ một mình ên. Tôi mỉm cười Mắt mờ chân chậm. Cùng tai điếc Nhưng vẫn nhìn đời. Một màu tươi Quà đến đầu năm. Thật bất ngờ Số là. Lẩn thẩn mấy vần thơ Văn chương nửa chữ. Chưa đầy túi Đời sống. Đôi khi cũng vật vờ Ấy thế. Mà nay được nhận vào Hội “Pen Hải Ngoại”. Nghe cũng oai Nghĩ mình. Viết style tài tử Lòng dặn lòng. Chữ đúng chữ sai Hôm nay. Vui nhận quà đầu năm Cũng mong. Còn sức để góp phần Truyện thơ nhớ. Đừng quên nguồn cội Tự Do. Hai chữ tựa sao băng 10 Chữ Nghiêng Nghiêng vai gánh một đóa sầu Nghiêng đôi tay với nửa bầu tương tư Nghiêng tâm thần trí sật sừ Nghiêng chân nửa bước đi từ hư không Nghiêng tai mờ ảo thinh không Nghiêng tim nghe nỗi mênh mông cội người Nghiêng môi héo một nụ cười Nghiêng mình xin lại nơi người nụ hôn Nghiêng lòng nghe nặng cô đơn Nghiêng đời để thấy được hơn chẳng là… 10 Chữ Có Có con chim lạnh mùa đông Có con suối nhỏ cạn dòng nước khô Có lau lách rủ đôi bờ Có nụ hoa đã cơ hồ héo hon Có con truông nhỏ dốc mòn Có cây thông đứng chon von bên trời Có chiều lộng gió chơi vơi Có đêm trăng khuyết van lời ca sao Có người im tiếng lao xao Có ta đứng ngóng trời cao để buồn… Một Sáng Mùa Đông Xe lăn bánh vật vờ Giữa cõi lòng bơ vơ Miên man niềm sương khói Thấp thoáng trời hư vô Dòng đời xe chạy vội Cuốn hút cơn muộn phiền Đi – về muôn vạn lối Có nẻo nào bình yên Tâm la đà trĩu ngọn Tình chôn chặt đáy sâu Một đời đi chưa trọn Tháng ngày đã qua mau Thôi cũng đành như thể Dòng suối cạn nước khô Chờ cơn mưa mùa hạ Từng giọt rơi hững hờ… Vớ Vẩn Nhắm mắt trông cảnh trời chiều Để nghe lục bát câu Kiều Nguyễn Du Gió lên giữa chốn mịt mù Ta đi về giữa thiên thu cõi người Bước ra từ mộng đười ươi Trăm năm hóa kiếp khóc cười vẩn vơ Nụ hồng úa nở câu thơ Trăng treo lơ lửng bên bờ tử sinh Thuyền trôi con nước dập dềnh Cũng xin một chút bình sinh với đời Câu thơ vớ vẩn khơi khơi Nắng chiều đang rụng bên đời hắt hiu Phong Châu Tháng giêng 2024 |
| Nói Với Chú Mèo Tạm trú thế gian một năm ròng Quanh năm chú chỉ chạy lông nhông Tìm thăm chú chuột trong xó tối Bốn mùa xuân hạ đến thu đông Trời ban cho chú phận thong dong Hết nằm lại đứng, đi vòng vòng Nghe mùi cá thịt bèn tìm đến No bụng uốn mình vẫy đuôi cong Tài cán chú nhờ một cái đuôi Quơ lên tới miệng để lau chùi Những khi ăn vụng quên liếm mép Quả đúng “mèo khen mèo dài đuôi” Đôi khi mắt sáng lại thành mù Giữa ngày trời đất bỗng âm u Hên quá “mèo mù vơ cá rán” Lòng mèo vui tận tới thiên thu Lắm lúc mĩu ta bỗng nhiên mừng Đang nằm chú vội nhảy tưng tưng Ấy vận hanh thông “mèo gặp mỡ” Ăn miếng trời cho miệng thơm lừng Tài cán đến đâu cũng là mèo Quanh năm suốt tháng nằm chèo queo Đụng trận “ba keo mèo mở mắt” Cũng đành thúc thủ kêu meo meo Thiên hạ chê “mèo mả gà đồng” Không chuồng không ổ, chạy đi rong Đang đêm nằm ngủ bên gò đống Ngày chạy lang thang giữa bãi, đồng Có ông tuổi Mẹo trẻ, chưa già Bàng dân thiên hạ gọi bằng cha Đã tới lúc “Mèo già hóa Cáo” (*) Lâu rồi cáo đãbiến thành ma… Nói Với Bác Rồng Chú Mĩu ra đi, đến bác Rồng Bác mình không chạy nhảy lông bông Cưỡi mây lướt gió bay cùng khắp Vùng vẫy trời tây đến biển đông Bác xuống trần gian thay chú Mèo Bác bay bác lượn không nằm queo Khua mây tung gió làm giông bão Cửa nhà xe cộ cũng bay theo Hoàng đế – ông vua gọi là rồng Chữ nghĩa ghi bằng một chữ Long Long thể, Long sàn cùng Long tửu Long bào, Long mão, xế cũng Long (**) Tết đến đi xem hội múa rồng Trẻ già chen chúc đứng coi đông Rồng đen rồng trắng rồng xanh đỏ Kiếm được mớ tiền bác lại dông Những kẻ sinh ra đúng tuổi rồng Hẳn là số phận được thong dong Tiền vô như thể rồng hút nước Nên lắm kẻ thèm đứng mà trông Mấy ông chữa lửa nắm vòi rồng Đến khi nhà cháy chỉ ngóng trông Tiền nong chung đủ, rồng phun nước Bàn dân thiên hạ cũng khóc ròng Người Việt vốn gọi giống Tiên Rồng Năm ngàn năm giữ vững non sông Nào hay có kẻ dâng bờ cõi Cho chú ba tàu thế là xong! Bởi xưa có đứa xuống nhà rồng Tìm đường rước chủ nghĩa cuồng ngông Đày đọa dân Nam gần thế kỷ Thần chết “liếm bùa” chẳng ai mong… Phong Châu Ghi chú: (*) Những chữ nghiêng là những phương ngôn dan gian Việt Nam (**) Long xa |
| VĂN TẾ 74 ANH HÙNG HOÀNG SA VỊ QUỐC VONG THÂN Liệt Nữ Vang Danh Ngời Sử Việt Anh Hùng Lưu Dấu Rạng Trời Nam Duy Việt Nam Quốc lịch năm thứ 4903 Thành phố Houson Tiểu Bang Texas Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ Chúng tôi, vốn giòng dõi Lạc Hồng, đang xa lìa đất tổ cùng thành tâm tụ về nơi đây để cử hành lễ tưởng niệm 74 vị Anh Hùng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa từ ngày 17 đến ngày 19 tháng giêng năm 1974. Kính cúi đầu cung thỉnh anh linh chư vị Anh Hùng vị quốc vong thân linh thiêng chứng giám. Nhớ ngày nào Nước nhà ly loạn Ngày vang đạn nổ Đêm vọng bom rơi Vườn ruộng tả tơi Cửa nhà tan nát Bởi loài giặc ác Phương Bắc tràn qua Trời Nam u uất… Nhớ ngày nào Hiệp định Ba Lê chưa hồi ráo mực. Giặc manh tâm rước giặc vào biển đông Chiếm đảo Hoàng Sa Hoàng Sa! Hoàng Sa! Đến hồi tử chiến Nhớ các anh xưa Theo tiếng gọi hồn thiêng sông núi Tuổi đời son trẻ Vội xếp bút nghiên Bỏ phố bỏ phường Vui đời binh nghiệp Tình không vương lụy Tạm bỏ thê nhi. Nối gót người xưa Ngô Quyền diệt quân Nam Hán. Theo gương Lý Thường Kiệt, Diệt Tống! Bình Chiêm Định phận nước Nam: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư” (1) Tiếp bước Trần Hưng Đạo Chiến công oanh liệt Diệt quân Mông dậy sóng Bạch Đằng Các Anh! Giận lũ bá quyền cướp nước Thề một phen sống chết với quân thù Nguy biến giang sơn, thất phu hữu trách Lửa thù cháy rực tâm can Quyết xông ra trận mạc Mong thỏa chí tang bồng Tô sáng trời Nam Rạng danh đất Việt Bước chân các Anh Chiến trường ghi dấu Bảo vệ sông ngòi biển cả Quyết giành lại đảo xa Tàu các Anh ra khơi rẻ sóng Sóng vỗ kình ngư Lý Thường Kiệt (2) Trần Bình Trọng (2) Gió lùa Nhật Tảo (3) Trần Khánh Dư (4) Các Anh lao mình vào họng súng Phá vòng vây Xông vào quân giặc Cản bước quân thù Đạn khói mịt mù Người trước gục kẻ sau tiến tới Các chiến hạm quần nhau quyết tử Thân xác sá chi Giữa tên bay đạn réo Vẫn hiên ngang chống lũ hung tàn Cho đến khi thân chìm tàu vỡ Dòng máu đỏ loang đầy biển cả Xác chìm sâu làm mồi cho loài thủy tộc Hồn bay phách tán chơi vơi… Vẫn biết ra đi không trở lại Định mệnh tại trời xanh Thân cỏ cây nam nhi há tiếc Xác bọt bèo trôi dạt về đâu! Than ôi Các Anh Công chưa thành Danh chưa toại Xả thân vì đại nghĩa Chí trai chẳng thẹn với tiền nhân Gương sáng soi chung cho hậu thế Đến nay Nửa thế kỷ trôi qua Nơi quê xa Khói hương tàn lạnh Bên trời Tây Xin thắp nén hương thành tâm khẩn ý Gửi tới các Anh Lại ngẫm rằng Đời người ngắn ngủi Lịch sử trường tồn Tên các anh đã rạng ngời sử sách… Hiển linh hồn phách Quyện vào hồn thiêng sông núi Phò trợ Việt Nam đoạt lại chủ quyền Linh diệu giúp dân nâng cao chí khí Đòi tự do, dân chủ, quyền sống thiêng liêng Của trăm triệu con dân nước Việt Giờ đây Trước làn hương khói quyện Chúng tôi cúi đầu thương tiếc Những Anh Hùng nghìn thu bất diệt Hồn hiển linh mong về chứng giám… Phong Châu Houston Tháng Giêng – 2024 (1) Lý Thường Kiệt (2) Tuần dương hạm: HQ 16 và HQ 05 (3) Hộ tống hạm: HQ 04 (4) Khu trục hạm: HQ 10 |
| Bóng Chiều Hoàng Hạc Lầu một phương chim một phương Lối xưa bóng cũ tà dương mịt mùng Hoàng Dương sông nước chập chùng (*) Đất xưa Anh Vũ lệ trùng trùng rơi Nhìn sau cố quận xa vời Dơi sa Vũ Hán ngút trời khói bay Lầu cao mời chén rượu cay Ngâm câu thơ cũ ngất ngây tử thần Hồn ma vất vưởng xa gần Mồ xanh đâu tá lửa trần đốt thiêu Người xưa mắt biếc diễm kiều Mà nay đẫm lệ mây chiều về đâu Chập chờn khóe mắt quầng sâu Đêm nghe tiếng nấc im câu giả từ Người qua phố chợ chần chừ Vàng sao cờ đỏ nát nhừ cỏ cây Chim xưa khuất bóng lầu tây Hoàng Hạc đâu hỡi về đây gọi hồn Phong Châu Tháng 3 – 2020 (*) Hoàng Hà – Dương Tử |
Lục Bát Tạ Ơn![]() Khói sương lãng đãng đã về. Lá hoa nghe cũng não nề nguồn khơi Nắng mưa ấm lạnh lẽ trời Buồn vui mấy nỗi phận người trần gian Rằng đâu thân được cưu mang Tháng năm khôn lớn rộn ràng tim ta Tạ ơn sinh dưỡng mẹ cha Tạ ơn sông núi bao la đất trời Tạ ơn người tạ ơn đời Tạ ơn em đã tặng lời yêu thương Tạ ơn mẹ những đảm đương Chắt chiu hạnh phúc vượt đường khó nguy Tạ ơn ngăn cách chia ly Tạ ơn sum họp lẽ vì thương yêu Tạ ơn em dáng mĩ miều Tạ ơn ta với bao điều đam mê Tạ ơn lối cũ đi về Cỏ cây hoa lá cận kề bước chân Tạ ơn những thoáng bâng khuâng Tạ ơn mây trắng cỏ hồng xôn xao Tạ ơn lời hát ca dao Nắng lên chiều xuống dạt dào Việt Nam Tạ ơn nghèo đói cơ hàn Tạ ơn khổ lụy muôn vàn đắng cay Tạ ơn quá khứ, hôm nay Tạ ơn phiêu bạt tháng ngày tự do Tạ ơn trời đất ban cho Suối xanh dòng ngọt buồn lo nỗi gì Tạ ơn cơm cháo khoai mì Tạ ơn dưa muối đền ghì hôm mai Tạ ơn con đếm một hai Rưng rưng mắt lệ đọc bài sử xưa Tạ ơn sớm nắng chiều mưa Bình minh chợt đến cũng vừa hoàng hôn Tạ ơn em đẹp tâm hồn Đường dài mưa nắng dặm buồn thiên di Tạ ơn mưa nắng thị phi Người xưa “quẳng gánh lo đi” nhớ lời Tạ ơn thầy dạy vào đời Tạ ơn bằng hữu tặng lời an vui Tạ ơn giọt lệ ngậm ngùi Mai sau sẽ khóc ta ngoài hư vô… Phong Châu |
| VẦNG TRĂNG QUÊ NHÀ Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Những mùa trăng sáng tận bao la Vầng trăng ấp ủ thương cùng nhớ Vẫn dõi theo người nơi phương xa Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Thuyền trăng êm chở mộng đi xa Mây trôi nhạc nhã nghìn cung phím Gió thổi thì thào gợn âm ba Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Hiên nhà ai vang vọng lời ca Hương lúa đồng xanh mùa đơm hạt Những cánh cò bay lả bay la Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Vườn xưa rộn rã tiếng reo ca Có chị bên em cùng sách vở Học bài vui cùng tiếng ê a Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Rời quê bỡ ngỡ lớp trường xa Nắng sớm nhởn nhơ bay tà áo Trăng hẹn cùng ai lên phố xa Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Mơ làm thi sĩ mộng văn gia Nguyễn Lưu lạc lối hoa đào mộng Lời tình Xuân Diệu thơ Nguyên Sa Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Thanh bình còn đẹp xóm thôn ta Đường hoa mở lối ươm vườn mộng Hoa đời chưa phủ sóng phong ba Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Theo người về phố thị kiêu sa Thương cha nhớ mẹ ngày vui hết Thương cả bầu trời rộng bao la Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Rong rêu ngày tháng dấu phôi pha Khổ đau hạnh phúc hoen dòng lệ Nhân thế đôi bờ nỗi chia xa Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Đêm nghe bom đạn vọng rừng xa Chinh chiến lửa tràn gieo tang tóc Vợ bỗng xa chồng con xa cha Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Ngày xuân bão nổi dậy phong ba Mây đen che phủ vầng trăng khuyết Trăng đã mịt mờ trong tim ta Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Không còn vang tiếng trẻ ê a Đường xưa lối cũ trăng mờ khuất Những nẻo đi về rợn bóng ma Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Đưa người vượt sóng cả đi xa Trăng úa dõi theo người muôn lối Đêm nhìn bóng nguyệt nhớ quê ta Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Trăng treo đỉnh núi muôn trùng xa Chân bước lang thang hồn lữ thứ Ai khóc dùm ta nỗi nhớ nhà Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Mong ngày trở lại sẽ không xa Ôm vầng trăng úa tuôn trào lệ Ôm cả bầu trời xanh quê cha Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà Vầng trăng thơ ấu của riêng ta Ngày mai trăng hết cơn phiền muộn Là một vầng trăng thuở thái hòa Phong Châu |
| EM RA ĐI Mùa Thu Những cây hoa anh đào sau sân nhà tôi đã rụng hết lá để nhô ra những cành xương xẩu – chông chênh – trơ trọi. Mới đây thôi, khi mùa thu đến, mỗi sáng tôi đều phải ra sân sau quét lá, những chiếc lá úa màu teo tóp nằm buồn bã trên nền đất thấy mà tội nghiệp; chúng không còn màu xanh tươi, chúng không còn sức để bám víu vào cành nên chi với chỉ một cơn gió nhẹ thoảng qua là chúng lả tả cuốn theo chiều gió. Hình ảnh mùa thu hình như ở nơi đâu cũng vậy. Nó ảm đạm đủ để gieo vào lòng người một nỗi buồn vô cớ. Một người dù cho có lạc quan yêu đời cách mấy mà đứng trước khung cảnh mùa thu, nhìn những chiếc lá rơi thì cũng có lúc cũng phải chạnh lòng một cách vu vơ…buồn như một người làm thơ dạo tiền chiến là Xuân Diệu đã viết “tôi buồn không biết làm sao tôi buồn”. Mùa thu đã đi vào dòng văn học của nhân loại từ đông sang tây, từ cổ chí kim. Vô số thơ văn nói về mùa thu, tả về mùa thu với bao tâm trạng khắc khoải của tâm tư người viết. Năm trước tôi cũng có viết một bài nói về mùa thu và không quên nhắc tới những nhà thơ Việt Nam với những bài thơ thu đã in đậm vào lòng người của nhiều thế hệ Việt Nam. Năm nay không đề cập đến những bài thơ nói về mùa thu nữa mà viết về một bài hát có dáng dấp mùa thu… Tôi vẫn còn nhiều hệ lụy với mớ ngôn ngữ nói về mùa thu qua những lời thơ tiếng nhạc. Vậy nên, đã từ lâu rồi, mỗi lần có những cơn gió heo may thổi về từ phương bắc là tôi biết mùa thu đã đến và tự mình nhắc nhở bằng câu hát “Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại. Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng âm u…Em ra đi mùa thu, mùa thu không còn nữa. Đếm lá úa mùa thu, đo sầu ngập tim tôi…”. Tác giả bài hát “Em Ra Đi Mùa Thu” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, ông này có thời gian ở ngay trong lòng thành phố Paris nên chẳng xa lạ gì với vườn Luxembourg, nơi đã đem bao nhiêu nguồn cảm hứng không những cho người bản xứ và cả cho những ai có cơ hội đến thủ đô ánh sáng và đã một lần – dù một lần ghé thăm vườn Luxembourg. Không hiểu những lời than oán trong bài hát là chính tâm trạng của tác giả hay là những lời “than vay khóc mướn” cho một mối tình của thiên hạ chỉ còn lảng vảng trong đám sương mù nơi vườn hoa cỏ và chập chờn trôi theo dòng nước sông Seine? Lời ca có những câu tiếp: “Ngày em đi…nghe chơi vơi não nề, qua vườn Luxembourg. Sương rơi trên phố mờ, buồn này ai có mua…Từ chia ly, nghe rơi bao lá vàng, ngập ngừng nước sông Seine. Mưa rơi trên phím đàn…chừng nào cho tôi quên…”. Tôi nghĩ có lẽ tác giả đã có một mối tình với một em tóc vàng (hoặc một em tóc đen) nào đó ở kinh thành Paris và rồi ghế đá công viên giờ đây chỉ còn một mình chàng ngồi ngắm lá thu rơi…em đã ra đi…chẳng bao giờ trở lại. Hình như chàng nghệ sĩ đã có một mối tình…nhưng chàng không có một lời nào mô tả – dù chỉ một mảng nhỏ hạnh phúc hay một khoảnh khắc yêu đương mà chỉ ghi một dấu ấn thời gian vô định “Hôm em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại…”. Hômcủa định mệnh! Hôm của ngày tháng trước, Hôm của năm tháng trước hay là Hôm của tiền kiếp nhân duyên? Cuộc chia ly nào mà không chòng chành những giọt nước mắt dù là nước mắt của người đi hay nước mắt của người ở lại. Đã đến lúc chàng nghệ sĩ không thể nào che dấu mãi tâm trạng “thất tình” của mình để rồi thốt lên “Lá úa khóc người đi, sương mờ giăng lên mi…”. Lá khóc hay làngười ngồi trong công viên khóc? Hay lá khóc cùng người? Lá lìa cành lá khóc. Người lìa người…người khóc. “Sương mờ giăng đôi mi” hay nước mắt đã biến thành một màn sương mờ mờ ảo ảo… Bài hát của Phạm Trọng Cầu kết thúc: “Em ra đi mùa thu, mùa lá rơi ngập ngừng. Đếm lá úa sầu lên, bao giờ cho tôi quên…”. Dù muốn dù không thì “em cũng đã ra đi”. Không còn gì để níu kéo. Thời gian từ cái “Hôm” nào đó cũng đã thành dĩ vãng chất chồng những lá úa, những chiếc lá định mệnh đã cắm sâu vào trái tim. Quên ư? Biết đến bao giờ…. Có một lần tôi ghé đến kinh thành Paris và đến vườn Luxembourg vào một buổi chiều bầu trời u ám. Tôi lang thang dưới hai hàng cây cây xanh không một bóng người. Những chiếc ghế chong chanh nằm ven hai bên lối đi trải rộng trước mắt. Mùa này lá chưa rụng nên chẳng có ai đến khóc cho mùa thu lá rụng như bài hát em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại… Phong Châu |
| CÓ MỘT LOÀI CHIM (Nhớ Trưởng Én Nhanh Nhẹn . Nhà Văn Nhật Tiến) Anh như cánh én lượn bên trời Trang chữ nguồn thơm mãi không vơi Mãi vang vọng cõi lòng nhân thế Một cõi trần gian mấy kiếp người Giấy trắng ghi điệu buồn tuổi thơ Những mảnh đời đi giữa bơ vơ Những Người Áo Trắng sầu vạn cổ Tiếng hát nụ cười chỉ ước mơ Ngơ ngác Thềm Hoang khói phủ mờ Những Vì Sao Lạc giữa hư vô Mây phủ Hoàng Hôn chiều khuất nắng Ánh Sáng Công Viên vẫn đợi chờ Có một loài Chim Hót Trong Lồng Người về buồn nhớ gió mênh mông Mắt lệ trông theo chiều lá rụng Biết về đâu bốn cõi thinh không Cánh Cửa vạt sương cuối chân đèo Chiều nghiêng về Vách Núi Cheo Leo Chợt nhớ đến Quê Nhà Yêu Dấu Cỏ cây hoa lá cũng buồn theo Thương tiếc chi Một Thời Đang Qua Mưa Xuân che khuất bóng quê nhà Mấy nẻo đi về chừng xa lắm Bập bềnh con nước cạn bờ xa Tóc đen, bạc Quê Nhà Quê Người Sắc màu năm tháng đã kém tươi Tặng Phẩm Của Dòng Sông ngày ấy Lau lách ngàn xưa vắng tiếng cười? Dòng đời đen trắng những nguồn cơn Trở trăn theo Giấc Ngủ Chập Chờn Xuân đến xuân đi làn gió thoảng Bỏ lại sau lưng những giận hờn Tráng sĩ hôm nay đã Lên Đường Chim trời tung cánh mộng viễn phương Lướt gió thênh thang vào Nguồn Thật Để lại cho đời những vấn vương Hoàng Kim Châu RS 23 Tháng 9 – 2020 Những chữ Nghiêng là tên của một số tác phẩm của nhà văn Nhật Tiến. |
| Grenouillère Chỗ xưa em ngồi chờ ta Lung linh con nước bóng tà dương xanh Đôi tà áo vạt mong manh Ta đong đưa thấy yến oanh bên đời Tuổi hồng còn mãi rong chơi Lạnh câm bàn ghế rã rời đợi mong Khói cay thuốc tỏa hương nồng Giọt cà phê đắng cũng bồng bềnh trôi Cỏ vẫn xanh bên kia đồi Ta hôn mê nuốt những lời liêu trai Em đi tóc lượt quên cài Để ta ngơ ngẩn dặm bài tình xa Phong Châu |
| tình khúc mùa đông Em như mây cao ta vực sâu Tình nghe chia cắt mộng ban đầu Thảng thốt chim bay qua đầu núi Thả gió làm rơi hạt sương đau Em một phương ta ở một phương Cổ tích từ nay mấy đoạn trường Em gọi gió đời lên giông tố Ta về ấp ủ một làn hương Em vui đời lòng ta đắng cay Cây khô mục rữa đá hao gầy Mai kia mốt nọ chim về núi Có lũ côn trùng khóc thương vay Em đã cùng ta tan giấc mơ Phấn son xưa xóa dấu trăng mờ Mắt môi giờ cũng trơ như đá Lối cũ đi về nhạt câu thơ Mai mốt ta về giữa mưa bay Phố xưa sương khói bãi giăng đầy Hồ xanh đã biến thành hoang mộ Giun dế khóc buồn ai có hay Rồi mai em về đâu ta đâu Giông gió cuồng reo chốn giang đầu Nghìn năm núi vẫn còn im tiếng Xin hãy cùng ta chia nỗi đau Phong Châu |
| tình tôi con dốc nhỏ Ta trở về thăm con dốc nhỏ Kỷ niệm rong rêu đã phủ đầy Đêm cúi xuống hôn từng ngọn cỏ Giọt sương khuya cào cấu đôi tay Khẽ hỏi thì thầm từng phiến đá Dấu chân xưa lạc khuất nơi đâu Em hiện hữu một đời xa lạ Ta xa xôi nửa kiếp tình sầu Guốc mộc sáng reo vui dốc nhỏ Áo dài chiều nắng vạt tung bay Ta cổ thụ giờ như ngọn cỏ Giọt tình phai trên đá ai hay Ta hát tình đầu con dốc nhỏ Lời cuồng si của kẻ u mê Em ra đi hồn sầu bỏ ngõ Con dốc buồn loài dế tỉ tê Thôi nhé giã từ con dốc nhỏ Hẹn trăm năm với gió cùng mây Còn yêu ta – em nhỏ vai gầy Xin nhỏ lệ mừng vui – vĩnh biệt Phong Châu |
| HT Thích Quảng Độ 1990 Đêm đêm lần bước xuống cầu ao Bó chân ngồi ngắm cảnh trời cao Gió gợn lăn tăn trên mặt nước Sương rơi man mác dưới trời sao Vận nước đục trong mưa với nắng Mệnh nhà suy thịnh trăng cùng sao Trải mấy nghìn năm hồn non nướcc Ai người chung gánh cuộc lao đao? Phong Châu 2010 |
| bóng chiều hoàng hạc Lầu một phương chim một phương Lối xưa rủ bóng tà dương mịt mùng Hoàng Dương sóng nước chập chùng (*) Đất xưa Anh Vũ lệ trùng trùng rơi Nhìn sau cố quận xa vời Dơi sa Vũ Hán ngút trời khói bay Lầu caomời chén rượu cay Ngâm câu thơ cũ ngất ngây tử thần Hồn ma vất vưởng xa gần Mồ xanh đâu tá lửa trần đốt thiêu Người xưa mắt biếc diễm kiều Mà nay đẫm lệ mây chiều về đâu Chập chờn khóe mắt quầng sâu Đêm nghe tiếng nấc im câu giã từ Người qua phố chợ chần chừ Vàng sao cờ đỏ nát nhừ cỏ cây Chim xưa khuất bóng lầu tây Hoàng Hạc đâu hỡi về đây gọi hồn … (*) Hoàng Hà – Dương Tử Phong Châu T Tháng 3 – 2020 |


| SỚ TÁO QUÂN Cuối năm. Tháng chạp Ngày đúng hăm ba Tục lệ gọi là Tiễn đưa ông Táo Lên trời báo cáo Tận chốn thiên đình Những chuyện linh tinh Ở nơi trần thế… Khấu tâu Thượng đế Suốt một năm qua Có chiến, không hòa Khắp trên mặt đất Nhân mạng tổn thất Nhà cửa tiêu tan Thống khổ cơ hàn Tang thương dâu bể… Trước tiên phải kể Tại Ukraina Cuộc chiến do Nga Xua quân xâm lược Đúng hai năm trước Mãi cho đến nay Thiên hạ đều hay Trên đà thất bại Putin sát hại Hàng vạn dân lành Chúng uống máu tanh Người dân vô tội Gây nhiều tội lỗi Trên đất Ukraina Hãm hiếp đàn bà Trẻ con bắt cóc… Chiến dịch thần tốc Thắng! chỉ ba ngày Nhưng cho đến nay Từ thua đến bại Số trời khó cãi Tướng tá thi nhau Đứa trước đứa sau Đi vào địa ngục Putin tiếp tục “Mục hạ vô nhân” Hù dọa lắm lần Xài bom nguyên tử Nhất ngôn nhất cử Đúng kẻ độc tài Lời lẽ thị oai Xem thường thiên hạ… Chuyện này chẳng lạ Hồi dạo tháng ba Đã có trát tòa Đại hình quốc tế Dành cho đồ tể Tên gọi Putin Đầu sỏ “mẹ mìn” Tội danh bắt cóc Định danh trúng phóc Tội ác chiến tranh Trát ghi rành rành Ra tòa luận tội… Ác nhân đầu mối Thủ lãnh Wagner Đâm mướn chém thuê Tay sai Nga tặc Chuyên nghề làm giặc Tội phạm côn đồ Tiền ủng hậu hô Giết người cướp của Phi châu một thuở Tàn sát dân lành Chủ nhóm lưu manh Prigozhin đầu sỏ Chiến trường rời bỏ Trở lại đất Nga Cùng đám lâu la Quyết làm đảo chánh Ai ngờ lọt mánh Kế bẩn Putin Không trúng đạn mìn Cũng lăn ra chết… Chuyện dài chưa hết Giúp Ukraina Vũ khí tà tà Chuyển sang biên giới Ukraina phấn khởi Tiêu diệt quân Nga Sang năm thứ ba Quyết phân thắng bại… Nhân loại quá hãi Chiến trận Trung đông Hamas chơi ngông Nửa đêm mở trận Gây thêm thù hận Với Israel Thử lửa một phen Xuyên qua địa đạo Quá là tàn bạo Giết sạch dân lành Con số ghi rành Nghìn tư nhân mạng Cấp cho bom đạn Từ xứ I Răng Chiến sự quá căng Israel nổi giận Mỗi ngày chục bận Oanh kích Gaza Con trẻ đàn bà Chết oan vô tội Hamas bí lối Ẩn náu nhà thương Do thái chẳng nương Mở đường tiêu diệt Hòa đàm đặc biệt Hưu chiến sáu ngày Bờ đông bờ tây Con tin được thả Bom rơi đạn nả Hỏa tiễn đua bay Vần vũ đêm ngày Gaza tan nát… Hoa kỳ bám sát Yểm trợ Israel Vài nước ăn theo Hùa theo Hamas Xuống đường bài bác Chống Israel Đả đảo ì xèo Từ Âu đến Mỹ… Nga thường bắt bí Các nước Âu Châu Có kẻ thụt đầu Sợ Nga như cọp Nato hội họp Số phận Phần Lan Luận luận bàn bàn Thuận đơn gia nhập… Nhiều điều bất cập Lắm chuyện xảy ra Từ nước chú Ba Trung hoa cộng sản Quyết đánh tư bản Tiêu diệt tư do Ra sức chăm lo Chiếm sông lấn biển Gây nhiều tai tiếng Chiến lược vòng đai Bẫy nợ dài dài Từ Phi đến Á Xưng hùng xưng bá Lấn chiếm biển đông Súng đạn chỉa nòng Đài Loan đảo quốc Ngoại giao phét bốc Ngôn ngữ sói lang Dân chúng chẳng màng Trong cơn đói khổ Thần là Táo mỗ Tâu tiếp chuyện nhà Tục gọi Cờ Hoa Hay là Mỹ đế Các nước đều nể Nước mạnh dân giàu Kinh tế hàng đầu Ai ai cũng khoái Nhưng mà phải nói Từ mấy nămnay Ban mặt ban ngày Lắm tên cướp bóc Bị bắt ngay chóc Lại được thả ngay Chúng lại phây phây Lên đường cướp tiếp… Mọi người đều biết Chuyện dài di dân Già trẻ rần rần Vượt biên trái phép Leo qua tường thép Chui lưới kẽm gai Ngày đêm miệt mài Tràn qua biên giới Texas ơi ới Phản đối chính quyền Khuyến khích vượt biên Nhận người vô hạn Lại còn tệ nạn Vật giá gia tăng Đồng lữa đồng lần Thắt lưng buộc bụng Mấy ngài to bụng Ở chốn nghị trường Đánh đấm chẳng nương Quyết tâm hạ thủ Chị lừa Dân chủ Anh Voi Cộng hòa Luôn mãi bất hòa Chủ trương chính sách… Bị nhiều chê trách Cụ Mac Kathy Xách cặp ra đi Johnson thay thế Voi Lừa vạch kế Tranh cử sang năm Biết ai vào nằm Giường êm Bạch ốc Nữ nam thống đốc Của đảng Cộng hòa Bù lu bù loa Rủ nhau tranh cử Bố Trâm tự xử Du thuyết một mình Không muốn ràng rinh Lên sàn tranh luận Bai Đần xử dụng Chiếc ghế đang ngồi Tuyên bố rằng “tôi” Cũng ra ứng cử Tuổi già ứ hự Té xuống té lên Muốn một mình ên Ngai vàng ngồi tiếp… Chuyện này nghe khiếp Tuồng cũ tích xưa Dính dáng dây dưa Anh chàng tên Kít (*) Ngoại giao lá mít Bán đứng đồng minh (**) Đi đêm tư tình Với thằng trung cộng Ngoại giao bóp họng Bại hoại vô luân Cách nay mấy tuần Vừa lăn ra chết… Năm Tây đón tết Ngày một tháng giêng Chuyện quả là phiền Ở nơi nước Nhật Xảy ra động đất Bảy độ + rich-te Nhà của sập đè Mấy trăm người chết Điện nước cúp hết Lại có sóng thần Nước uống thức ăn Vô cùng thiếu hụt Có vùng bị lụt Di chấn xảy ra Kéo cửa lôi nhà Trôi theo hà bá… Xem ra chẳng khá Ấy chuyện Việt Nam Một lũ quan tham Hiếp dân bán nước Dân nghèo xơ mướp Quan sống lầu cao Rối loạn cào cào Tệ đoan xã hội Chúng gây lắm tội Gái điếm mãi dâm Xuất khẩu liền năm Cu li lao động Đè đầu chặn họng Ngoáy mũi người dân Lợi lộc chia phần Quan to cán lớn Có chuyện cà chớn Giải cứu cu li Tiền bạc phải chi Để đưa về nước Số tiền tính ước Cả tỷ đô la Nát cửa tan nhà Dân nghèo nước Việt Một bầy chết tiệt Hùm sói hung hăng Công an lãnh phần Còng tay bắt bớ Tội danh ấm ớ Cướp đoạt nhân quyền Lươn lẹo đảo điên Hại người vô tội… Quy trình cơ hội Cướp đất của dân Dấy máu ăn phần Quan tham đầu sỏ Đầu đường cuối ngõ Cảnh sát công an Tay – rất sẵn sàng Nhận tiền hối lộ Mọi nơi mọi chỗ… Bức hại giáo dân Đủ mọi thành phần Tin lành Công giáo Diệt tiêu rốt ráo Phật giáo Việt Nam Đối xử dã man Người dân miền núi Không chịu luồn cúi Dưới ách gông cùm Lãnh số phận chung Ngục tù tăm tối… Chính là đầu mối Chủ nghĩa mác lê Thối tha ê chề Đã vào sọt rác Thế mà thằng bác Hồ hỡi chôm về Liềm búa để kê Cổ – đầu dân Việt Chủ nghĩa chết tiệt Bán nước hại dân Chúng sẽ lãnh phần Tru di cửu tộc… Thần xin bạch bộc Một tí gọi là Nhắc đến phe ta Gọi là Văn Bút Điểm qua một chút Cớ sự trước sau Được biết từ lâu Việt Pen hải ngoại Văn thơ đủ loại Kết tụ tài nhân Chung sức giữ phần Tinh hoa nước Việt Xiển dương đặc biệt Hai chữ Tự Do Viết lách chăm lo Văn chương thi phú Thần đây chí thú Nguyệch ngoạc bấy nay Chữ nghĩa chưa đầy Tính ra nửa túi Bỗng có người xúi Vào hội Bút Văn Hẹn lữa hẹn lần Nay đà nhập hội Thần đây phải vội Cám ơn hai người Chị tính vui tươi Tên là Lan Nữ (***) Người kia tên chữ Là Thúy Messegee Đơn đã gửi đi Đầu năm chấp thuận Dày công tạo dựng Chị Cung Thị Lan Chức danh trưởng tràng Bút Văn Hải Ngoại Có vùng được gọi Đông Bắc Hoa Kỳ Chủ tịch nữ nhi Mỹ danh Hồng Thủy Thần bèn suy nghĩ Chữ nghĩa bổn nhà Viết lách qua loa Ở nơi xó bếp Bây giờ được xếp Vào hàng thi nhân Lo sợ muôn phần Đành theo duyên hạn… Giờ thần tản mạn Cùng với Ngọc hoàng Thần rất hân hoan Bám đuôi cá chép Lệnh tuân một phép Phi thẳng lên trời Tâu chuyện khắp nơi Mong ngài thấu tỏ… Thần xin nói rõ Tháng chạp năm nay Lê tấm thân gầy Thiên đình đáo nhập Lại còn được gặp Thiên đế Ngọc hoàng Lòng dạ mở toang Đón chào Táo mỗ Thần đây ngửa cổ Trình tiếp lên ngài Ngày một ngày hai Nữa là đến tết Năm Mèo sắp hết Thời tiết sang xuân Pháo nổ tưng bừng Năm Rồng lại đến Bao nhiêu rác rến Tống ra khỏi nhà Con cháu mẹ cha Cùng nhau vui tết Vợ thần lo hết Mua sắp thức ăn Gà lợn mười cân Bò dê chín ký Lại còn mấy tí Bánh tét bánh chưng Mứt bí mứt gừng Rượu nồng dưa hấu Cùng đàn con cháu Họp mặt vui xuân Nâng “Ly Rượu Mừng” Năm Rồng may mắn… Giờ Thần xuốngtấn Kính chúc Ngọc hoàng Long thể an khang Tinh thần minh mẩn Nếu ngài không bận Ghé xuống trần gian Ngắm cảnh cơ hàn Thương người nhân thế… Thời gian đã trễ Thần phải lên đàng Trở lại thế gian Ngọc hoàng vạn tuế Vạn vạn vạn tuế… Phong Châu (*) Henry Kisinger (**) Việt Nam (***) Dịch giả Thái Lan |
| Saint benoit Em đi về Saint Benoit Dưới chân em bỗng cỏ hoa rủ sầu Giọt mưa rơi mưa rơi mau Đôi hàng thông cũng nát nhàu tương tư Mắt em ai vẽ nhân từ Nụ cười Di Lặc hiện từ thuở nao Anh vô thường dưới trăng sao Dấu chân Từ Thức lối nao tìm về Guốc vông – sách vở – tóc thề Đi trong sương sớm cận kề hư vô Theo em gõ nhịp chân hờ Nghe trong tuổi đá cũng mờ vàng phai Phong Châu |
| tháng 5. đà lạt Đà lạt mỗi ngày. Sáng. Chiều. Trưa Tháng 5. Anh nhớ trời đổ mưa Chân em qua ngõ. Buồn vai áo Tóc xỏa bên trời. Mây lưa thưa Em đi. Giữa đôi hàng thông xanh Có con chim nhỏ. Hót trên cành Em vui. Như thể ngày xuân đến Đâu biết có người buồn. Như anh Đường qua nhà em. Lối nhỏ quanh Sương mai nhòa nhạt. Áo thiên xanh Chân mang hoa cỏ. Vào cửa lớp Em như sương. Như khói mong manh Rồi từng ngày qua. Từng ngày qua Đường đời phiêu lãng. Lời Du Ca Nước non rồi cũng ngăn. Nghìn lối Biển cát đôi đường. Cũng chia xa Tháng 5 rồi. Em ở phương nao Nhớ xưa Đàlạt. Cơn mưa rào Ngồi soi tóc bạc. Chòm mây trắng Vui buồn ai biết . Tình hư hao Phong Châu |
| đêm dài Gối tay thao thức trọn năm canh Nuôi mộng tàn đêm mộng chẳng thành Giận chú chim kêu lừng buổi sáng Hờn anh dế gáy vọng đêm thanh Thêu bao mộng ước tay còn trắng Dệt mấy ân tình tóc biếng xanh Đã biết bao đêm chờ đợi sáng Ngộ đời mộng mị mãi lanh quanh Phong Châu |
| hoài cảm Quá nửa đời người vẫn trắng tay Sao lanh quanh mãi thế gian này Ngẫm cuộc nhân sinh càng thêm ngán Suy vần thế sự chửa hết cay Cố quốc đường mây chừng xa lắc Quê nhà sương khói mịt mờ bay Cánh nhạn lênh đênh trời viễn xứ Hồn quê ấp ủ kiếp lưu đày Phong Châu |
| biển Những bước chân khua ánh mặt trời Buồm căng theo gió vượt trùng khơi Tử địa xua người ra hải lộ Bến bờ thấp thoảng áng mây trôi Biển dậy phong ba tiếng thét gào Bập ềnh thuyền giữa cõi trăng sao Biển cuốn em lên đầu ngọn sóng Biển lùa mẹ xuống đáy vực sâu núi và sông Núi vẫn âm thầm ôm bóng mây Sông soi bàng bạc ánh trăng gầy Núi sông đôi bóng hình chung thủy Mây cùng trăng từ đâu tới đây Sáng núi ngân vang khúc dặm đường Chiều sông đồng vọng tiếng quê hương Ai đem ta đến sông cùng núi Tình lụy nhau rồi chẳng thể buông Phong Châu |
| 10 dạo khúc Núi Leo lên đỉnh núi ngắm sao Mang theo lều gậy dựng cao tới trời Khoanh tay dưng dửng chuyện đời Ông sao thấy hỏi thảnh thơi thế à… Rừng Vô rừng nhặt được câu thơ Tiếng kêu khách lạ giả vờ không nghe Mùa hè được nghe tiếng ve Mùa thu xem lá sắc hoe đỏ vàng Sông Lội sông đến tận cội nguồn Đôi bờ lau lách suối tuôn mấy dòng Ừ thì nước đổ ra sông Thuyền dù xa bến cũng mong đổ bờ Biển Ra biển nhớ người vượt biên Buồn cho vận nước đảo điên tới giờ Biển đưa người vượt sang bờ Tóc xanh nay đã bạc phơ mất rồi Trăng Trăng treo lơ lửng biển trời Có anh cuội nhỏ cứ mời lên thăm Xin chờ cho đến trăng rằm Hằng nga rõ mặt ghé thăm cũng vừa Sao Có bao nhiêu sao trên trời Tôi ngồi tôi đếm cuộc đời được thua Rằng chẳng được cũng chẳng thua Xem ra được mớ già nua trên đầu Sương Nắng mai chọc thủng sương mù Cũng làm cho bớt âm u cõi lòng Đôi chân ta chạy vòng vòng Một đời nhân thế mặn nồng hư không Mưa Giọt mưa và giọt mưa rơi Ngút ngàn ân huệ từ trời tặng ban Cây khô đứng giữa hai hàng Có một chiếc lá vội vàng chao rơi Gió Lên đồi gọi gió hôm nao Nhớ xưa lũng thấp đồi cao chập chùng Tóc mây khua gió bập bùng Dặm đường tí tách lửa rừng reo vui Nắng Thuở xưa vui bước lên đàng Ba lô trĩu nặng nắng vàng mang theo Mây xa ở cuối chân đèo Giờ thì ngồi nhớ để hiu hắt buồn Phong Châu |
| Phiếm Năm Con Rồng Tôi đã đặt cả hai chân lẫn hai tay và một cái đầu vào những ngày đầu tiên năm thứ 24 của thế kỷ 21. Coi như một phần tư thế kỷ. Một phần tư thế kỷ đâu phải là ít. Nhưng cũng chưa phải là nhiều. Hình như tôi hơi tham lam khi nhớ lại lúc còn sống trong ngôi nhà xã nghĩa đại đồng vì tôi đã từng ao ước “được sống đến ngày đầu tiên của thế kỷ thứ 21”. Đúng là loại “ước mơ hão huyền” quá tầm với của tôi vào thời gian nhìn thấy người ta cứ rủ nhau mườm nượp lên thuyền (chứ không phải là tàu) vượt biên, rồi cũng lắm người leo lên máy bay xé mây để đi đến “Tây Phương Cực Lạc”. Thế mà tôi – rốt cuộc cũng được làm thân tỵ nạn tại đất nước Hoa Kỳ này đã ngoài ba mươi năm và điều khiến tôi vui nhất là đã “được sống đến ngày đầu tiên của thế kỷ 21”. Chẳng những thế mà tôi đã sống được gần một phần tư thế kỷ. Cũng nhớ lại, từ ngày đầu thế kỷ đến nay tôi đã trải qua rất nhiều lần được đánh đu theo con Rồng sắt để đi nhiều nơi trong thiên hạ. Năm Rồng đầu tiên của thế kỷ 21 là năm 2000, kế đến là năm 2012 và hiện tại là 2024. Trí nhớ của tôi đã cùn lụt ở tuổi tám mươi nên chỉ nhớ vài mẫu chuyện của hai năm Rồng: Rồng Canh Thìn 2020, Rồng Nhâm Thìn 2012. Nhớ tới đâu viết tới đó cho vui vậy thôi và một cách để luyện trí nhớ. Trước hết với năm Rồng 2000. Dạo đó bàng dân thiên hạ gọi là Y2K (Year of 2000). Những tháng cuối của thế kỷ 20 tin tức lề phải, lề trái, lề giữa, lề trước, lẫn lề sau… đều có đưa tin: Vào đúng thời điểm giao thừa của năm 1999 -2000 thì toàn thể nhân loại sẽ văng biến ra khỏi mặt đất, hay nói nôm na là “tận thế”. Xuất phát từ nơi đâu tôi cũng không nhớ nhưng tin “tận thế” đã khiến cho sáu bảy tỷ người đang sống trên mặt đất phải nhảy nhổm lên như mông chạm phải lửa. Tin đồn từ người này qua người khác, từ nhà này sang nhà khác…rồi từ nước này qua nước khác… từ Á sang Âu, từ Phi sang Mỹ sang Úc…Người ta nói rằng ngày tận thế đã được các nhà tiên tri nói tới cách nay cả vài trăm năm như Nostradamus hay vài chục năm như bà mù Baba Vanga. Mấy chục năm nay cứ mỗi lần có một biến cố nào “xấu” thì thấy một số các ông bà làm báo “đời”, các nhà bình “loạng quạng” lại có cơ hội móc tên ông Nostradamus hay bà Vanga ra để rồi gán cho họ đã tiên tri đúng phóc chuyện vừa xảy ra. Tôi cho rằng những lời tiên tri thường được luận giải thông qua lăng kính “chụp mũ” nghĩa là khi có những “việc xấu” như động đất, núi lửa, sóng thần, chiến tranh…xảy ra thì tên các nhà tiên tri được móc ra để rồi bảo họ đã tiên tri đúng trăm phần trăm. Chẳng hạn khi chiến tranh Nga – Ukraina xảy ra thì người ta lôi ông Nostradamus và chụp cho ông là đã tiên tri đúng như trên một trang mạng đã viết như sau: “Ông Nostradamus viết trong năm 2022 “giá bột mì cao đến mức khiến con người chấn động và nhân loại rơi vào cảnh tuyệt vọng”. Lời tiên tri này đúng với khủng hoảng lương thực do ảnh hưởng từ xung đột Nga – Ukraina. Ông cũng viết rằng: “Cá sống ở Biển Đen sẽ bị luộc chín” và nhân loại lâm vào cảnh thiếu ăn. Biển Đen năm 2022 là điểm nóng xung đột Nga – Ukraina khi soái hạm Moskva bị đánh chìm và Nga phong tỏa khiến Ukraina không thể xuất cảng lương thực”. Nếu chỉ đọc thoáng qua thì có vẻ tiên tri của Nostradamus đúng với sự kiện đã xảy ra từ xung đột Nga – Ukraina. Nhưng nói “giá bột mì cao đến mức khiến con người chấn động và nhân loại rơi vào cảnh tuyệt vọng” thì quả là hàm hồ quá mức. Việc thiếu lương thực do Nga phong tỏa chỉ ảnh hưởng đến một số nước ở Phi Châu cũng chưa khiến con người chấn động” và “nhân loại rơi vào cảnh tuyệt vọng”. Đúng là lời của những thầy bàn “vô tội vạ”. Những lời bàn này gây hoang mang cho mọi người. Năm Con Rồng 2000 (Y2K) người ta lôi những lời tiên tri của Nostradamus làm luận cứ cho “ngày tận thế” khiến nhân loại hoang mang đến mức náo loạn. Người ta ùn ùn kéo nhau ra chợ mua đủ mọi thứ mang về nhà tích trữ vì sợ “tận thế” không còn thức ăn. Nghe nghịch lý. Đã tận thế, chết hết ráo còn ăn uống cái nỗi gì? Lạ thật! Trong các chợ người ta vơ mua không còn một thứ gì trên các kệ hàng, nước – gạo – mắm – muối – cá – thịt – mì gói – bột- đường và cả giấy đi cầu…không còn thứ gì. Tháng 12 năm đó thiên hạ thuộc các sắc dân trắng đen nâu vàng không còn tha thiết gì với mùa lễ Giáng Sinh và Năm Mới. Người người đang chuẩn bị chết! Rổn rảng nhất là những lời đồn đoán (tiên tri!) rằng phút đầu tiên của năm 2000 trái đất sẽ quay về thời kỳ đồ đá vì có sự trục trặc từ cách ghi thời gian của hệ thống máy tính. Biến cố này được gọi bằng những tên Y2K Problem, Y2K Scare, Y2k Bug, Y2K Error, Millennium Bug…khiến hệ thống máy tính sụp đổ làm cho hệ thống giao thông trên toàn cầu bị ngưng trệ và tất cả những cơ quan xử dụng máy tính đều phải “phẹt mê bu tích”, sinh hoạt của nhân loại chìm vào bóng tối. Không còn ai sống sót! Nghe ra thật kinh hoàng! Tôi đã đặt câu hỏi: “Tại sao các ông các bà thầy bàn lại biết được rằng ở giây đầu tiên của năm 2000 lại có sự trục trặc của hệ thống máy tính trên khắp toàn cầu?”. Nhưng rồi lạ thay! Mười giây cuối cùng của năm 1999 tại thành phố New York người ta vẫn count down… ten…nine…eight…two…one…zero và thiên hạ reo mừng năm 2000 đã đến và năm Con Rồng sau đó lại tà tà xuất hiện vào ngày 5 tháng hai của năm Y2K. Kẻ này không tin vào chuyện tận thế nên đã xin bề trên một nghìn đô để mua một chai rượu Cognac Millennium 2000 hiện vẫn còn nằm trong tủ rượu, lâu lâu lấy ra nhìn cho cho vui con mắt, hẹn có dịp vui để khui mời bạn bè ăn mừng. Tin mừng đã đến: Nhân ngày quốc tế nhân quyền hôm 10 tháng 12 – 2023 có nghe mấy con vượn tuyên bố với toàn nhân loại rằng rằng: “Ngày 31 tháng 12 – 2099 Việt Nam cam kết sẽ thực hiện nhân quyền”, nghĩa là còn đúng 75 năm nữa. Đây mới là sự kiện đáng ăn mừng! Tôi sẽ khui chai rượu Millennium Y2K! Và muốn khui chai rượu đầu thế kỷ thì phải đợi cho đến cuối thế kỷ! Như vậy tôi phải sống đến 155 tuổi để được uống rượu Millennium Y2K. Nhưng theo truyền thống tốt đẹp lâu đời của các ngài đỉnh cao trí tệ thì “cam kết” là một chuyện, còn “thực hiện” hay không là chuyện khác. Không chừng tôi phải sống qua đến thế kỷ hai mươi hai để được nhâm nhi Cognac Millenniun năm 2000… *** Thứ đến là chuyện năm Rồng 2012. Năm này có lẽ còn căng hơn năm “con bọ Y2K”. Từ tháng 10 tôi đã nghe râm rang truyền miệng là “Tận thế sẽ diễn ra vào đúng vào ngày 21 tháng 12 – 2012”. Tin này đầu tiên loan ra từ một một vị mục sư cho các tín đồ và được nhanh chóng đến tai mọi người trên khắp toàn cầu. Ngoài những lời phán chắc như đinh đóng cột (cột bằng gỗ lẫn cột bằng đá) của vị mục sư, còn có vô số nhà tiên tri mới mọc cùng các “mê tín gia”, các nhà “thời cơ” luận luận bàn bàn hết sức rum beng khiến tác động đến đời sống của cả nhân loại. Hình ảnh của những nhóm thổ dân miệt Trung mỹ lập đàn khấn nguyện xin đừng động đất, các ông thầy cúng ở Ấn Độ cũng dựng đàn khấn vái tứ tung. Ở Pháp người ta rủ nhau chạy đến một thành phố (không nhớ tên) để khỏi chết vì nơi đó “không tận thế”. Thực tế nhất là ở Hoa Kỳ, nhiều nơi người ta đào hầm sâu xuống lòng đất đến năm bảy mét rồi xây nhà lập phòng và các tiện nghi khác để tránh tận thế, có những căn nhà bề ngang ba mét, dài năm mét được lắp bằng những tấm thép giá cả trăm nghìn đô la. Thứ ít tiền hơn thì người ta chỉ đặt những ống thép dưới lòng đất ba thước (không phải ba tấc) và ai muốn xuống trốn dưới đó thì cứ đến đó mà chui xuống “ống mồ” mà núp…Kể sơ thôi chứ nhiều chuyện xảy ra nghe nực cười lắm. Ngoài ra, bổn cũ được soạn lại chu đáo hơn là màn đi vét các thức ăn thức uống ở các chợ Việt chợ Mỹ chợ Tàu… lẫn chợ Mễ chợ Đại Hàn… Nhiều nhà tiên tri mới không tên tuổi vin vào ý kiến của các nhà chuyên nghiên cứu lịch sử nhân loại cho rằng: Người Maya vào thời cổ đại ở vùng Trung mỹ đã có một nền văn minh huy hoàng và họ là người đã phát minh ra cách tính lịch còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Theo đó, lịch Maya được hình thành vào 250 đến 900 năm sau công nguyên và được quay vòng theo các chu kỳ. Năm 2012 là thời điểm kết thúc của một chu kỳ nhỏ thuộc một chu kỳ lớn (?). Đó chính là thời điểm “tận thế”, trái đất sẽ bị chôn vùi trong những trận động đất và hỏa hoạn sau khi bị một tiểu hành tinh đâm xuống trái đất đúng vào ngày 21 tháng 12. Năm 2000, tôi còn nhớ vào lúc quả cầu sáng từ thành phố New York vừa chạm số zero và bản nhạc Auld Lang Syne cất lên thì cả nhà chúng tôi tuy đang ngồi nhà vẫn cùng nhau nâng ly “Chúc Mừng Năm Mới”. Do cảm nhận từ Y2K nên giao thừa của 2012 chúng tôi cũng lặp lại bài bản cũ: không chạy đi mua thức ăn cho ngày tận thế và cũng nâng ly “Chúc Mừng Năm Mới” đồng thời gửi lời chúc đến cho bạn bè thân quen ở khắp mọi nơi. *** Năm nay 2024. Âm lịch là năm con rồng – năm rồng thứ ba của thế kỷ 21. Cũng như rất “thông lệ” khi trận động đất tại Nhật Bản xảy ra vào ngày đầu năm dương lịch thì lập tức hôm sau đã thấy vài email chuyển đến cho biết là bà Baba Vanga đã tiên đoán trúng phóc biến cố chết người này. Tôi tính hay nghi ngờ nên đặt vấn đề: “tại sao các nhà chuyên theo dõi để đọc để nghe các lời tiên tri của bà Vanga không báo trước cho bàng dân thiên hạ biết để đề phòng bằng cách di tản ra khỏi khu vực có động đất mà mãi sau khi động đất mới đi mò tìm tiên đoán của bà và cho rằng “đúng phóc”? Dạo biến cố 911 xảy ra năm 2001 cũng vậy, sau khi có hơn ba ngàn người chết bởi vụ đâm máy bay vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước thì người ta mới lôi những tiên đoán của bà Vanga ra và cũng phán rằng bà Vanga nói “trúng phóc”. Tình trạng này đã diễn ra cả thế kỷ nay và hình như đây là công việc chính của những nhà mê các lời tiên tri sau những biến cố. Kẻ này không hiểu nỗi! Tết con rồng thứ ba của thế kỷ 21 sẽ bắt đầu từ ngày 10 tháng 2 – 2024. Mong rằng suốt năm con rồng đừng có thêm biến cố chết người để khỏi nghe các lời bàn của các nhà mê tiên tri trừ các cuộc chiến đã và đang xảy ra tại Đông Âu và Trung Đông. Phong Châu |
| Truyện Ngắn Những Chiếc Bánh Bao Vào ngày lễ Giáng sinh, như mọi năm, cư dân sống quanh khu vực phía bắc cầu Trường Giang, một số rất ít người, từ sáng sớm đã lặng lẽ đi đến nhà thờ để dự lễ chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ vì chính quyền địa phương thông báo là giáo đường không được cử hành lễ lâu hơn thời gian đã quy định, cũng không được cử hành lễ vào buổi chiều và ban đêm. Những người đến dự lễ hỏi nhau tại sao thì không một ai trả lời được. Bà Weng Show trở về nhà với nỗi lo âu. Bà tính là chỉ còn một tháng nữa là tới ngày tết nguyên đán. Cũng như mọi năm, bà sẽ mua sắm đủ các thứ để trưng bày trong nhà và mua thêm nhiều thức ăn đặc biệt rồi do chính tay bà nấu cho cả gia đình và cả bạn bè, hàng xóm đến thăm có cái ăn trong ba ngày tết. Ngoài ra bà cũng không quên sẽ ghé quày bán các mặt hàng trang trí để thỉnh về một chú chuột vàng mà bà đã nhìn thấy trên các màn ảnh ti vi, bà sẽ đặt chú chuột vào một nơi trang trọng nhất trong nhà để quanh năm suốt tháng gia đình bà sẽ gặp nhiều điều may mắn như những lời quảng cáo ra rả mấy tháng nay để hối thúc mọi người hãy mau mua chuột vàng mang về kẻo hết. Bà sẽ mua tặng cho chồng một chiếc áo ấm mới và cả hai đứa con gái của bà, mỗi đứa một túi xách tay loại hàng hiệu Coach mà chúng hằng mơ ước. Chồng bà là bác sĩ hiện đang làm việc tại một bệnh viện ở thành phố Đông Hồ nằm trong địa phận tỉnh Hồ Bắc. Hai con của bà đều đang theo học đại học tại Thượng Hải, chúng trọ ở nhà của người em ruột của bà từ hơn hai năm nay. Đã hơn tháng, lúc đi nhà thờ, khi đi chợ bà được nghe nhiều người nói đến hình như là sắp có một sự kiện gì đó rất quan trọng xảy ra cho thành phố Vũ Hán. Bà cho đó là những tin đồn vô căn cứ mà đã từ lâu dân Vũ Hán đã quen với những tin kinh thiên động địa chẳng hạn như tin tận thế vào năm 2000, hai mươi năm trước đây, rồi cũng tin về tận thế năm 2012 và nhiều tin động trời khác nữa. Những dịp này dân chúng trong thành phố bày nhiều trò cúng kiến cầu khẩn, đến đình chùa miếu mạo đóng tiền xin lễ để mong cho “tai qua nạn khỏi”. Và rồi chẳng thấy chuyện gì xảy ra. Lần này bà Weng cũng cho là những tin đồn nhảm nhí như bao lần trước. Tuy nhiên bà vẫn thường xuyên nghe ngóng tin tức ở mọi bề, trên các đài phát thanh và truyền hình, kể cả những tin được cho là rò rỉ từ khắp mọi nơi lọt vào tai bà. Bà lo lắng và thường xuyên gọi cho hai con ở xa. Đối với ông Nhậm Chí Cường, chồng bà thì năm nay không được nghỉ vào dịp lễ Giáng sinh, theo lời ông là đang chuẩn bị lo tết cho bệnh viện nơi ông làm việc. Bà Weng lại nghĩ, chắc năm nay trong bệnh viện các nhân viên và bệnh nhân ăn tết lớn. Chuyện này vẫn thỉnh thoảng xảy ra trong quá khứ mỗi khi có các lãnh tụ cấp cao đến thăm bệnh viện trong những dịp lễ hay tết nguyên đán. Bà cũng yên tâm như mọi năm. Kể từ ngày rằm tháng chạp âm lịch, khi màn đêm buông xuống ở khắp mọi nơi, cư dân phía bắc cầu Trường Giang được nghe từ các loa phóng thanh “mọi người không được đi ra ngoài vì thời tiết rất xấu có thể xảy đến bất ngờ”. Bà Weng liên tục mở màn ảnh ti vi từ đài trung ương cho đến các đài địa phương đều không có tin tức thời tiết như đã được báo động. Bà thắc mắc và nghi ngờ nhưng không tìm ra được câu trả lời nào cả. Mỗi sáng sớm bà đến nhà thờ để hỏi thăm cha xứ xem có chuyện gì xảy ra thì cha xứ cũng chỉ nói cho bà biết những gì mà cha đã nghe từ mấy chiếc loa và các đài của nhà nước. Cũng có những giáo dân đến nói với cha những tin tức họ nghe người này người nọ nhắc đến như một cơn bệnh sẽ bộc phát tại thành phố Vũ Hán có thể giết cả hàng triệu người. Cha dặn bà là phải cẩn thận, không nên phát tán những gì cha nói với bà để tránh bị vạ lây, nguy hiểm lắm! Kể từ hôm đó bà thấy dân chúng kéo nhau đi mua thức ăn và các vật dụng cần thiết khác để dự trữ. Các chợ và quày bán thực phẩm đã diễn ra cảnh xếp hàng dài dằng dặc và chen lấn chửi bới nhau để giành mua thức ăn, bà cũng cố chen vào dòng người đó để mua mang về được một mớ thực phẩm, trong đó có những thứ gia đình bà không bao giơ ăn đến, thấy thiên hạ vơ vét mọi thứ nên bà cũng phải làm như vậy mà thôi. Cho đến một buổi chiều, sau khi bà đặt mâm cỗ bên trong nhà để cúng đưa ông Táo về trời (*), thì tất cả đèn trong nhà bị tắt ngấm. Bà đến trước bàn thờ chụp vội chiếc đèn bạch lạp đang cháy đặt ngay giữa căn phòng để có chút ánh sáng. Bà tiến đến cửa trước vạch màn nhìn ra ngoài thì trời ơi, bà la lên một tiếng hốt hoảng khi bên ngoài là cả một vùng bóng tối, không một chút ánh sáng và cũng không nghe cả một tiếng động.Tất cả những đèn ngoài đường đều tắt ngấm. Cả người bà toát mồ hôi và một cơn lạnh buốt chạy suốt sống lưng của bà. Bà phải cố bình tĩnh và vịn men theo vách tường đến ngồi vào sofa. Một sự im lặng rợn người cùng với bóng tối bủa vây cả thành phố. Đang miên man lo sợ không biết chuyện gì xảy ra thì bỗng nhiên có tiếng loa vang hình như từ tứ phía vọng vào tai bà, bà nghe không rõ cả một loạt thông báo dài nhưng đại để là đảng và nhà nước ra lệnh cho nhân dân thành phố Vũ Hán kể từ 12 giờ khuya đêm nay không được ra khỏi nhà, đây là lệnh giới nghiêm cho cả thành phố, ai trái lệnh sẽ bị trừng phạt thích đáng… Liên tục nhiều ngày sau, bà gọi điện thoại cho chồng là ông Nhậm Chí Cường, cho cả hai đứa con gái ở Thượng Hải nhưng các đường dây điện thoại đã bị cắt. Bà gọi cho một số bạn bè và cả người hàng xóm thì tất cả mọi nơi đều im hơi lặng tiếng. Ban ngày, hé màn cửa nhìn ra ngoài thì bà có cảm tưởng chừng như mười một triệu người dân Vũ Hán đã biến đi đâu mất, thỉnh thoảng mới thấy một vài chiếc xe chạy vụt qua, trên đường không người đi, rác từ trong nhà đã tràn ra vệ đường, không người quét dọn…Nhìn phía xa chút nữa nơi công viên cạnh bờ sông, mỗi ngày đều có người già đến đó để tập thể dục, trẻ con đến vui chơi thì nay không một bóng người. Bà quay lưng vào và buột miệng nói “thành phố ma!”. Mỗi ngày bà cố gắng gọi điện thoại cho chồng và hai con nhưng đều vô vọng. Bà lặng lẽ trong căn nhà rộng với tâm trạng hoang mang lo sợ tột cùng. Bỗng một hôm bà nghe tiếng điện thoại reo và nhận ra số điện thoại của chồng bà. Bà cuống quýt mừng vui nhấc điện thoại và hỏi thăm rối rít…anh đang ở đâu? anh đang làm gì? anh có khỏe không? anh có thứ gì để ăn không? …Ông Nhậm Chí Cường chỉ nói cho bà biết là ông rất khỏe và đang được chuyển đến một bệnh viện khác. Chỉ chừng ấy thôi là điện thoại cúp. Bà gọi lại thì bên kia đầu dây không nghe tiếng reo của điện thoại. Mấy ngày sau bà lại thấy cũng có nhiều người đi ra khỏi nhà nên bà cũng thử bước ra khỏi nhà để hỏi thăm các người ấy đi đâu thì bà mới vỡ lẽ là kể từ ngày có lệnh “nội bất xuất ngoại bất nhập” vẫn có nhiều người liều mạng đổ xô đến các nhà ga xe lửa, bến xe và sân bay với hy vọng bám được theo chuyến bay, chuyến xe, chuyến tàu cuối cùng để rời khỏi thành phố đáng sợ này trong khi chính quyền ra thêm thông báo rằng, nếu không có giấy phép đặc biệt, không ai được quyền rời khỏi thành phố. Bà Weng chết lặng người khi nhiều người đang chạy trên đường cho bà biết là đang có một thứ bệnh, một con vi trùng gì đó phát xuất từ khu chợ trung tâm Vũ Hán mà người ta gọi là vi rút từ một loài dơi đang được bày bán ở chợ. Trên các lối ra vào thành phố, giao thông đều bị tắt nghẽn và rồi hệ thống tàu điện ngầm, xe buýt, các sân bay và ga tàu hỏa đều bị đóng cửa. Nhiều trung tâm thương mại lớn cũng không còn mở cửa. Các kệ hàng trong siêu thị trống trơn, nhiều khu chợ địa phương bị người dân vét sạch hàng hóa. Các trạm xăng bị quá tải vì tài xế ùn ùn kéo tới giữa những tin đồn rằng nguồn nhiên liệu dự trữ cạn kiệt, các cửa hàng bán nhu yếu phẩm đã bị cư dân địa phương mua hết những chiếc khẩu trang cuối cùng. Bà Weng đã lấy lại được sự bình tĩnh sau cả tuần bị bấn loạn tinh thần. Một hôm bà bước ra cửa và gặp một người quen, trước có thời gian dạy học chung với bà cho bà hay là giáo sư Wang Wei, bạn của chồng bà dạy ở đại học công nghệ Vũ Hán tìm cách cách về quê ăn tết ở Suizhou cách Vũ Hán 150 cây số nhưng không thoát được, bị bắt và rồi mất tích cho tới nay…Rất nhiều tin tức do những người ngoài đường thỉnh thoảng nói cho bà biết nhưng bà quan tâm nhất là chồng bà và hai người con đã bặt tin, bây giờ không biết số phận của họ ra sao… Một buổi sáng chủ nhật bà thức dậy sớm với ý định đi đến nhà thờ để thăm cha xứ mặc dầu bà biết là các buổi lễ đã được hủy bỏ. Khi bà vừa mở cửa ra thì thấy dưới chân bà có một gói hàng. Nhìn kỹ không phải là gói hàng mà một cái giỏ nhỏ đựng thức ăn. Bà thấy có một mẩu giấy viết tay mà bà linh tính biết là của chồng bà. Cầm mẩu giấy lên xem kỹ thì đúng là nét chữ nắn nót của chồng với vỏn vẹn mấy chữ: Anh vẫn khỏe. Có mấy cái bánh bao cho em. Thương nhớ. Dưới có chữ ký của ông Nhậm Chí Cường. Bà xách giỏ bánh bao đem vô nhà, quên cả việc phải ghé đến nhà thờ sáng nay. Bà cầm miếng giấy phủ mấy chiếc bánh bao để qua một bên và thấy năm cái bánh bao, đưa tay đặt nhẹ lên thì bà thấy những chiếc bành bao còn âm ấm. Chắc là mới mua ở tiệm, bà nghĩ thế. Một niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn bà, bà yên lặng đón chào một thứ hạnh phúc đang khắc khoải mong đợi cho bõ những ngày lo âu thương nhớ. Bà lại tự nghĩ, có lẽ vì công việc nhiều nên chồng bà không về nhà được và hơn nữa lại có giới nghiêm, chắc nay mai ông lại về thôi. Bà tự an ủi và thấy vui trong lòng. Chưa cạn niềm vui, bà lại nghe tiếng điện thoại reo. Con của bà từ Thượng Hải gọi về. Chúa đã giúp bà. Tạ ơn Chúa. Bà chỉ kịp làm dấu thánh giá rồi nghe tiếng nói của hai con tranh nhau hỏi thăm sức khỏe của bà, chúng nói chúng vẫn khỏe và vẫn đi học bình thường và dì Weng Ming có nhắn lời thăm bà. Bà chưa kịp nói gì và hỏi thăm các con thì điện thoại đã cúp. Bà gọi lại. Điện thoại bên kia không có tiếng reo… Bà Weng còn nhớ rõ, hôm bà nhận năm chiếc bánh bao của chồng là ngày cuối cùng của năm âm lịch. Liên tục trong ba ngày bà đều nhận được giỏ thức ăn, bên trong có năm chiếc bánh bao cùng với mẩu giấy có ghi dòng chữ giống như những chữ đã ghi trong mẩu giấy đầu tiên bà nhận được và cũng chữ ký của chồng. Ngày đầu ghi 24 tháng 1 năm 2020, ngày thứ nhì ghi 25 tháng 1 (nhằm ngày tết, mồng một) và ngày cuối là 26 tháng 1. Cầm những mẩu giấy trong tay như những báu vật cuối cùng bà Weng không khỏi hoang mang lo sợ. Linh tính cho bà biết chắc đang có chuyện gì xảy ra với chồng bà đây…Bà gọi cho hai con để báo tin về chuyện những chiếc bánh bao nhưng không liên lạc được. Những chiếc bánh bao được cho vào một góc tủ lạnh, bà không đụng tới chúng. Bà sẽ đợi cho đến hôm nào bác sĩ Nhậm Chí Cường cùng hai con trở về, bà mới mang ra, đồng thời sẽ nấu vài món ăn đặc biệt cho cả nhà cùng ăn để chào mừng cái tết muộn cũng không sao. Bà háo hức đợi đến ngày đoàn tụ gia đình…Bà chờ đợi… Vào khuya ngày 1 tháng 3, khoảng 11 giờ, khi bà đang lần chuỗi hạt và đọc kính Mân Côi thì nghe tiếng gõ cửa. Bà vội vàng chạy ra mở cửa vì bà nghĩ rằng, chồng hoặc con bà về. Cửa vừa mở ra thì có ba người đàn ông trong những bộ đồng phục màu đen đeo mặt nạ lập tức quật hai tay bà ra phía sau, trùm mặt và lôi bà quăng lên phía sau một chiếc xe màu đen đang nổ máy đậu trước cửa. Chiếc xe lao nhanh vào bóng đêm mịt mùng… Phong Châu Tháng 3 – 2020 (*) Mặc dầu là người theo đạo Công giáo, một số ít gia đình tại Trung hoa vẫn còn giữ tập tục xưa “cúng ông táo” vào 23 tháng chạp âm lịch. |
| Mây Bay… Những áng mây chiều lờ lững trôi Thênh thang bay mãi tận chân trời Có chở tình ta về bên ấy Neo vào bến nước cạn dòng trôi Ngày tháng tha hương gót bềnh bồng Trăng tròn trăng khuyết sầu mênh mông Đôi vầng nhật nguyệt ôm thương nhớ Đất đá thương nhau cũng nát lòng Chim biệt xa ngàn nội cỏ phai Người xưa năm cũ biết còn ai Chén rượu ly bôi ngày chia biệt Ghế đá đom buồn giọt nắng mai Lá mùa thu đã rụng ven sông Bờ xưa con nước có chạnh lòng Phố cũ còn ai qua ngõ vắng Đêm buồn như phố thị mùa đông Người ở nơi nào ta chốn đây Rong rêu trong trí đã phủ đầy Nửa giấc chiêm bao dài muôn kiếp Mộng vút lên trời theo áng mây Người xưa còn nhớ gọi tên nhau Trăm năm chưa đến đã bạc đầu Lữ khách dừng chân hoài dĩ vãng Đường về che khuất lối nương dâu Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay Người đi xa lạc dấu chim bầy Hương lòng xin gửi về quê cũ Dòng lệ vơi đầy chén rượu cay Phong Châu Tháng 8 – 25 |








