PHONG CHÂU-HOÀNG KIM CHÂU

Tiểu sử Văn thi sĩ Phong Châu- – Tên thật Hoàng Kim Châu   
Người gốc Huế. Sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt
Cử nhân triết Đại Học Đà Lạt
Viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
Sinh hoạt Hướng Đạo: Từ 1955 tại Đạo Lâm Viên và các Đạo Vũng Tàu, Hoa Lư (Sài Gòn),  Houston (Texas)
Thành viên Ban Trầm Ca (Đà Lạt) 1965
Thành viên sáng lập Phong Trào Du Ca Việt Nam (1966)
Tác phẩm (Tự ấn hành):   1/ NGUỒN THẬT (Thơ Hướng Đạo)   2018
                                         2/ Trên Dòng Kỷ Niệm (Tuyển tập Thơ Văn, Ký sự…) 2022
 Dự định ấn hành “Bên Lề Tám Mươi
Các tác phẩm Văn Xuôi ca tác giả Phong Châu ( Hoàng Kim Châu)
 Vui lòng nhấn vào các nhan đề sau để thưởng thức:
1. Truyện Ngắn: Những Chiếc Bánh Bao-Phong Châu
2. Tháng Ba Nhớ Quang Du Ca-Phong Châu
3.  Chuyện Của Quang. Chưa Nói Hết…-Phong Châu
4. Mười Ba Trại Sinh-Phong Châu
5. Con Dốc Nhỏ Đưa Em Về Căn Gác Nhỏ  – Phong Châu
6. Lại Nói Chuyện Tết-Phong Châu
7. UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN-Phong Châu
8. Thứ Sáu Đen-Phong Châu
9. Oan Khiên-Phong Châu
10. Nghiệt Oan-Phong Châu
11.Hồ Lung Linh-Phong Châu
12. Truyện Ngắn Vạt Nắng-Phong Châu
13. TÂM TÌNH 70 NĂM-Phong Châu-Trưởng Hoàng Kim Châu
14. Nhớ Trưởng – Nhà Văn Nhật Tiến-Phong Châu
Trang thơ  của thi sĩ PHONG CHÂU-HOÀNG KIM CHÂU
vịnh bức dư đồ rách
Nọ bức dư đồ thử đứng coi                      
Sông sông núi núi khéo bia cười                         
Biết bao lúc mới công vờn vẽ                          
Sao đến bây giờ rách tả tơi                      
Ấy trước ông cha mua để lại                     
Mà nay con cháu lấy làm chơi                         
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ                      
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
 Tản Đà                                                                      
1921
Bài họa của cụ Phan Bội Châu   

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi                                 
Ta bồi cho chúng chị em coi                 
Giận con cái đà hư như thế                                 
Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài                  
Còn núi còn sông nhìn vẫn rõ                     
Có hồ, có giấy dễ như chơi                      
Vì chưng hồ, giấy ta chưa có                           
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi
Phan Bội Châu                                                
1927
 Phụng họa 1
Chúng bán còn đâu nữa mà bồi                        
 Chẳng còn lề giấy để đứng coi                           
Công ơn tiên tổ từng vun vẽ                              
 Đất nước nay thành mảnh đồ chơi               
Phương Bắc âm u nhìn chẳng rõ                      
Trời Nam mờ mịt khuất biển khơi            
Cũng tại hồ kia không phải bột                        
 Càng bồi càng rách nát tả tơi
Phong Châu                                                
2015
 
Bài họa 2
Càng bồi càng rách nát tả tơi                    
Giang sơn chúng tưởng như đồ chơi   
Ngàn năm tiên tổ công gìn giữ                        
Gìn giữ biên thùy đến biển khơi                          
Ải Bắc đã giao cho tàu cộng                          
Bờ Đông bán đứng cho hán nô                      
Chín chín năm sau ai bồi nữa?                  
Mất hết. Làm chi giấy với hồ!
Phong Châu                                                
2015
tháng tư
Tháng tư máu trào lên óc                                   
Tháng tư mưng mủ trong tim                           
Tháng tư bỗng đầu bạc tóc                                
Tháng tư oan khuất nỗi niềm
Tháng tư sao đành súng gãy                              
Tháng tư thành phố khăn tang                         
Tháng tư buồn dòng lệ chảy                              
Tháng tư vui nỗi cơ hàn
Tháng tư ak dạo phố                                            
Tháng tư dã thú biết cười                                    
Tháng tư tự do xuống hố                                    
Tháng tư công lý chết tươi
Tháng tư chồng vô tù ngục                     
Tháng tư vợ đuổi vào rừng                   
Tháng tư cơm khoai rủ mục                              
Tháng tư mẹ nước mắt rưng
Tháng tư tràn ra cửa biển                         
Tháng tư giông tố trùng khơi                            
Tháng tư hận ngày quốc biến                           
Tháng tư vang điệu ru Hời…
 Phong Châu  
  chốn xưa                                    
 
Về chốn xưa. Hoa đào không nở                       
Đồi thông xanh. Héo úa cả đời 
Giọt Mozart. Sương chiều rơi vội
Hồ xuân phai. Khuất bóng mây trôi

Chiều đợi mưa. Bên giòng suối nhỏ        
Mặt trời buồn. Nước cạn giòng khô      
Dấu phôi phai. Hồn anh bỏ ngõ                       
Cơn gió lùa. Bờ trán nhấp nhô

Cả một đời. Ngồi nghe gió hú                  
Đỉnh cheo leo. Sương khói mịt mù        
Có một lần. Em qua nơi đó                       
Để hồn sầu. Buốt giá thiên thu
Phong Châu
thuở
đà lạt 
           
Mỗi con dốc là một con đường              
Sáng qua chiều lại nắng tơ vương                  
Áo vàng ai thoáng bay đầu ngõ             
Tơ tóc mây rừng thông ngát hương
Lá rụng chiều phai cùng kỷ niệm         
Sỏi buồn lạc dấu nẻo công viên            
Em theo đường nắng chân hờ hững      
Mắt biếc như dòng trăng Suối Tiên
Núi vẫn xanh và hồ vẫn xanh               
Sương rơi bờ cỏ lệ long lanh                        
 Nắng mai chưa vội hoa đào nở                    
 Thiêm thiếp mây hồng chợt biến nhanh
Đã nhủ lòng thôi đừng nhớ nữa                          
Ví dầu như sáng nắng chiều mưa                           
Dấu xưa sỏi đá nay còn lạnh                          
Em vẫn nghiêng dù đợi nắng trưa
 Phong Châu
 
về rừng
Ta về rừng cũ ngó quanh                                      
Chim muông đã chết lá xanh chẳng còn          
Bây giờ đường thẳng xe bon                                       
Ngựa xe đã xóa dấu mòn lối xưa                        
Xa rồi ngày cũ chiều mưa                          
Áo vai lạnh giá tiễn đưa nhau về                               
Chập chờn nhà cửa tứ bề                        
Ngổn ngang gò đống cận kề tha ma                        
Trở về ta lại nhìn ta                                               
Bình minh đã gọi bóng tà dương phai      
Trăm năm người cũ còn ai                                
Rừng xưa đã mất dấu hài thanh xuân
 
sương mù cali . sương mù đà lạt
Buổi mai thức dậy lạnh sương mù             
Trời âm u lòng cũng âm u                                   
 Môi khô như vỏ thông Đà lạt                          
 Tim úa như chiều rơi lá thu
Dĩ vãng hồ xưa tiếng nguyệt cầm                           
Cà phê trĩu giọt vỡ thanh âm                                
Gót buồn cổ tích đêm hè phố                     
Một thuở đi về vai lạnh căm
Mây qua phố núi gọi mưa buồn                              
Đôi hàng liễu rủ tóc lơi buông                           
Em qua ngõ vắng vầng trăng khuất                
Ta đứng buồn theo chiều mưa tuôn
Sương đẫm vai em tuổi học trò                             
Ban mai đường trải mộng thơm tho               
Chiều về mây xám vương đầu núi                    
Ta cùng em lỡ chuyện hẹn hò
Đường lên dốc trải tình rêu phong              
Trăng treo đỉnh núi gió bềnh bồng                   
 Kỷ niệm tàn phai trên phiến đá                         
Ta về vui giá lạnh mùa đông
Sương Cali lạnh trời lâm viên                        
Ngồi nghe gió nhắn gọi ưu phiền                  
Gom trong trí nhớ trời đà lạt                   
Thấp thoáng sương mù cõi non tiên
Phong Châu 
vịnh cái cầu ao  
        
Khen ai khéo đặt chiếc cầu ao
Một mình một khoảnh giữa trời cao
Hai miếng gỗ tươi bền biết mấy
Một thanh sắt nguội chắc làm sao
Ngày hạ phơi gan trong mưa nắng
Đêm đông trải mật dưới trăng sao
Năm tháng nổi chìm chung với “nước”
Cùng nhau chia xẻ nỗi lao đao
Phong Châu 
Tháng Giêng

Tháng giêng trời xanh bỏ ngõ
Gọi mời hoa bướm vào chơi
Sắc màu xanh vàng tím đỏ
Em hồng má thắm đôi môi
Tháng giêng thì thầm gọi gió
Sang mùa vần vũ trùng khơi
Có loài chim di bé nhỏ                                           
Vật vờ đôi cánh tả tơi
Tháng giêng người đi ra biển
Nhớ về dĩ vãng khôn nguôi
Xa nhau cuối mùa chinh chiến
Ai dòng ngược ai nẻo xuôi
Tháng giêng đứng bên bờ núi
Mỏi cổ trông về cố hương
Đâu rồi quê cha đất tổ
Xa tắp ở tận mười phương
Tháng giêng đi vào phố chợ
Nhớ mẹ dặm miếng trầu cau
Trĩu lưng đã dài năm tháng
Chập chùng bãi cát nương dâu
Tháng giêng vọng hồn tử sĩ
Bây giờ hồn phách nơi đâu
Có nghe trùng trùng sông núi
Quê hương gánh nặng nỗi sầu
 
 
Đầu Năm 24
Đầu năn 24. Tuổi tám mươi
Chỉ một mình ên. Tôi mỉm cười
Mắt mờ chân chậm. Cùng tai điếc
Nhưng vẫn nhìn đời. Một màu tươi
Quà đến đầu năm. Thật bất ngờ
Số là. Lẩn thẩn mấy vần thơ
Văn chương nửa chữ. Chưa đầy túi
Đời sống. Đôi khi cũng vật vờ
Ấy thế. Mà nay được nhận vào
Hội “Pen Hải Ngoại”. Nghe cũng oai
Nghĩ mình. Viết style tài tử
Lòng dặn lòng. Chữ đúng chữ sai
Hôm nay. Vui nhận quà đầu năm
Cũng mong. Còn sức để góp phần
Truyện thơ nhớ. Đừng quên nguồn cội
Tự Do. Hai chữ tựa sao băng
10 Chữ Nghiêng
Nghiêng vai gánh một đóa sầu
Nghiêng đôi tay với nửa bầu tương tư
Nghiêng tâm thần trí sật sừ
Nghiêng chân nửa bước đi từ hư không
Nghiêng tai mờ ảo thinh không
Nghiêng tim nghe nỗi mênh mông cội người
Nghiêng môi héo một nụ cười
Nghiêng mình xin lại nơi người nụ hôn
Nghiêng lòng nghe nặng cô đơn
Nghiêng đời để thấy được hơn chẳng là… 
 
10 Chữ Có
Có con chim lạnh mùa đông
Có con suối nhỏ cạn dòng nước khô
Có lau lách rủ đôi bờ
Có nụ hoa đã cơ hồ héo hon
Có con truông nhỏ dốc mòn
Có cây thông đứng chon von bên trời
Có chiều lộng gió chơi vơi
Có đêm trăng khuyết van lời ca sao
Có người im tiếng lao xao
Có ta đứng ngóng trời cao để buồn…
 
Một Sáng Mùa Đông
Xe lăn bánh vật vờ
Giữa cõi lòng bơ vơ
Miên man niềm sương khói
Thấp thoáng trời hư vô
Dòng đời xe chạy vội
Cuốn hút cơn muộn phiền
Đi – về muôn vạn lối
Có nẻo nào bình yên
Tâm la đà trĩu ngọn
Tình chôn chặt đáy sâu
Một đời đi chưa trọn
Tháng ngày đã qua mau
Thôi cũng đành như thể
Dòng suối cạn nước khô
Chờ cơn mưa mùa hạ
Từng giọt rơi hững hờ…


                                Vớ Vẩn
Nhắm mắt trông cảnh trời chiều
Để nghe lục bát câu Kiều Nguyễn Du
Gió lên giữa chốn mịt mù
Ta đi về giữa thiên thu cõi người
Bước ra từ mộng đười ươi
Trăm năm hóa kiếp khóc cười vẩn vơ
Nụ hồng úa nở câu thơ
Trăng treo lơ lửng bên bờ tử sinh
Thuyền trôi con nước dập dềnh
Cũng xin một chút bình sinh với đời
Câu thơ vớ vẩn khơi khơi
Nắng chiều đang rụng bên đời hắt hiu
 
Phong Châu                                                  
Tháng giêng 2024
Nói Với Chú Mèo

Tạm trú thế gian một năm ròng
          Quanh năm chú chỉ chạy lông nhông
          Tìm thăm chú chuột trong xó tối
          Bốn mùa xuân hạ đến thu đông
Trời ban cho chú phận thong dong
Hết nằm lại đứng, đi vòng vòng
Nghe mùi cá thịt bèn tìm đến
No bụng uốn mình vẫy đuôi cong
Tài cán chú nhờ một cái đuôi
Quơ lên tới miệng để lau chùi
Những khi ăn vụng quên liếm mép
Quả đúng “mèo khen mèo dài đuôi
Đôi khi mắt sáng lại thành mù
Giữa ngày trời đất bỗng âm u
Hên quá “mèo mù vơ cá rán”
Lòng mèo vui tận tới thiên thu
Lắm lúc mĩu ta bỗng nhiên mừng
Đang nằm chú vội nhảy tưng tưng
Ấy vận hanh thông “mèo gặp mỡ”
Ăn miếng trời cho miệng thơm lừng
Tài cán đến đâu cũng là mèo
Quanh năm suốt tháng nằm chèo queo
Đụng trận “ba keo mèo mở mắt
Cũng đành thúc thủ kêu meo meo
Thiên hạ chê “mèo mả gà đồng”
Không chuồng không ổ, chạy đi rong
Đang đêm nằm ngủ bên gò đống
Ngày chạy lang thang giữa bãi, đồng
Có ông tuổi Mẹo trẻ, chưa già
Bàng dân thiên hạ gọi bằng cha                                
Đã tới lúc “Mèo già hóa Cáo” (*)                              
Lâu rồi cáo đãbiến thành ma…


 
Nói Với Bác Rồng
Chú Mĩu ra đi, đến bác Rồng                                                  
Bác mình không chạy nhảy lông bông
Cưỡi mây lướt gió bay cùng khắp
Vùng vẫy trời tây đến biển đông
Bác xuống trần gian thay chú Mèo
Bác bay bác lượn không nằm queo
Khua mây tung gió làm giông bão
Cửa nhà xe cộ cũng bay theo
Hoàng đế – ông vua gọi là rồng
Chữ nghĩa ghi bằng một chữ Long
Long thể, Long sàn cùng Long tửu
Long bào, Long mão, xế cũng Long (**)
Tết đến đi xem hội múa rồng
Trẻ già chen chúc đứng coi đông
Rồng đen rồng trắng rồng xanh đỏ
Kiếm được mớ tiền bác lại dông
Những kẻ sinh ra đúng tuổi rồng
Hẳn là số phận được thong dong
Tiền vô như thể rồng hút nước
Nên lắm kẻ thèm đứng mà trông
Mấy ông chữa lửa nắm vòi rồng
Đến khi nhà cháy chỉ ngóng trông
Tiền nong chung đủ, rồng phun nước
Bàn dân thiên hạ cũng khóc ròng

Người Việt vốn gọi giống Tiên Rồng
Năm ngàn năm giữ vững non sông
Nào hay có kẻ dâng bờ cõi
Cho chú ba tàu thế là xong!
Bởi xưa có đứa xuống nhà rồng                                 
Tìm đường rước chủ nghĩa cuồng ngông
Đày đọa dân Nam gần thế kỷ
Thần chết “liếm bùa” chẳng ai mong…
Phong Châu                           
Ghi chú:
(*) Những chữ nghiêng là những phương ngôn dan gian
Việt Nam

(**) Long xa
VĂN TẾ 74 ANH HÙNG HOÀNG SA                                             
VỊ QUỐC VONG THÂN 
  Liệt Nữ Vang Danh Ngời Sử Việt                                                                          
Anh Hùng Lưu Dấu Rạng Trời Nam
Duy Việt Nam                                                                    
Quốc lịch năm thứ 4903                                                                
 Thành phố Houson                                                                  
Tiểu Bang Texas                                                                   
 Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
Chúng tôi, vốn giòng dõi Lạc Hồng, đang xa lìa đất tổ cùng thành tâm tụ về nơi đây để cử hành lễ tưởng niệm 74 vị Anh Hùng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa từ ngày 17 đến ngày 19 tháng giêng năm 1974. Kính cúi đầu cung thỉnh anh linh chư vị Anh Hùng vị quốc vong thân linh thiêng chứng giám.
Nhớ ngày nào                                                                     
Nước nhà ly loạn                                                                       
Ngày vang đạn nổ                                                                               
Đêm vọng bom rơi                                                                     
Vườn ruộng tả tơi                                                                      
Cửa nhà tan nát
Bởi loài giặc ác                                                                            
Phương Bắc tràn qua                                                                    
Trời Nam u uất…
Nhớ ngày nào                                                                          
Hiệp định Ba Lê chưa hồi ráo mực.                                         
Giặc manh tâm rước giặc vào biển đông                              
Chiếm đảo Hoàng Sa                                                       
Hoàng Sa! Hoàng Sa!                                                           
Đến hồi tử chiến
Nhớ các anh xưa                                                                   
Theo tiếng gọi hồn thiêng sông núi                                         
 Tuổi đời son trẻ                                                                      
Vội xếp bút nghiên                                                                            
 Bỏ phố bỏ phường                                                                        
Vui đời binh nghiệp                                                                                              
Tình không vương lụy                                                                     
Tạm bỏ thê nhi.                                                                          
Nối gót người xưa                                                                              
Ngô Quyền diệt quân Nam Hán.                                                  
Theo gương Lý Thường Kiệt,                                                 
 Diệt Tống! Bình Chiêm                                                    
Định phận nước Nam:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư                                                  
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư                                            
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm                                                
Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư” (1)
Tiếp bước Trần Hưng Đạo                                                         
Chiến công oanh liệt                                                                   
Diệt quân Mông dậy sóng Bạch Đằng
Các Anh!                                                                              
Giận lũ bá quyền cướp nước                                                                   
Thề một phen sống chết với quân thù                                                
Nguy biến giang sơn, thất phu hữu trách                                   
Lửa thù cháy rực tâm can                                                                 
Quyết xông ra trận mạc                                                               
Mong thỏa chí tang bồng                                                                           
Tô sáng trời Nam                                                                    
Rạng danh đất Việt
Bước chân các Anh                                                                      
Chiến trường ghi dấu                                                          
Bảo vệ sông ngòi biển cả                                                               
Quyết giành lại đảo xa                                                                               
Tàu các Anh ra khơi rẻ sóng                                                           
Sóng vỗ kình ngư Lý Thường Kiệt (2)                               
Trần Bình Trọng (2)                                                               
Gió lùa Nhật Tảo (3)                                                                 
 Trần Khánh Dư (4)                                                                    
Các Anh lao mình vào họng súng                                                   
Phá vòng vây                                                                              
Xông vào quân giặc                                                                      
Cản bước quân thù                                                                           
Đạn khói mịt mù                                                                     
Người trước gục kẻ sau tiến tới                                                 
Các chiến hạm quần nhau quyết tử
Thân xác sá chi                                                                   
Giữa tên bay đạn réo                                                                          
Vẫn hiên ngang chống lũ hung tàn                                             
Cho đến khi thân chìm tàu vỡ                                                       
Dòng máu đỏ loang đầy biển cả                                                     
Xác chìm sâu làm mồi cho loài thủy tộc                                  
Hồn bay phách tán chơi vơi…
Vẫn biết ra đi không trở lại                                                          
Định mệnh tại trời xanh                                                    
Thân cỏ cây nam nhi há tiếc                                                             
Xác bọt bèo trôi dạt về đâu!
Than ôi                                                                                  
Các Anh
Công chưa thành
Danh chưa toại                                                                                
 Xả thân vì đại nghĩa                                                                 
 Chí trai chẳng thẹn với tiền nhân                                                 
 Gương sáng soi chung cho hậu thế
Đến nay                                                                                              
Nửa thế kỷ trôi qua                                                                                                                                                     
Nơi quê xa                                                                                      
Khói hương tàn lạnh                                                              
Bên trời Tây                                                                                                                                           
Xin thắp nén hương thành tâm khẩn ý
Gửi tới các Anh                                                                      
Lại ngẫm rằng                                                                       
 Đời người ngắn ngủi                                                                                  
Lịch sử trường tồn                                                                   
 Tên các anh đã rạng ngời sử sách…                                                                                                                                                                               
Hiển linh hồn phách                                                                    
Quyện vào hồn thiêng sông núi                                                 
Phò trợ Việt Nam đoạt lại chủ quyền                                               
 Linh diệu giúp dân nâng cao chí khí                                                  
Đòi tự do, dân chủ, quyền sống thiêng liêng                                           
Của trăm triệu con dân nước Việt
Giờ đây                                                                             
Trước làn hương khói quyện                                                   
Chúng tôi cúi đầu thương tiếc                                                          
Những Anh Hùng nghìn thu bất diệt                                              
Hồn hiển linh mong về chứng giám…       
Phong Châu                                                                      
Houston                                                                                   
Tháng Giêng – 2024                         
(1) Lý Thường Kiệt                                                                         
(2) Tuần dương hạm: HQ 16 và HQ 05                                
(3) Hộ tống hạm: HQ 04                                                         
(4) Khu trục hạm: HQ 10
 
              Bóng Chiều Hoàng Hạc                                
Lầu một phương chim một phương       
Lối xưa bóng cũ tà dương mịt mùng
Hoàng Dương sông nước chập chùng (*)
Đất xưa Anh Vũ lệ trùng trùng rơi
Nhìn sau cố quận xa vời                        
Dơi sa Vũ Hán ngút trời khói bay          
Lầu cao mời chén rượu cay
Ngâm câu thơ cũ ngất ngây tử thần
Hồn ma vất vưởng xa gần
Mồ xanh đâu tá lửa trần đốt thiêu
Người xưa mắt biếc diễm kiều
Mà nay đẫm lệ mây chiều về đâu
Chập chờn khóe mắt quầng sâu
Đêm nghe tiếng nấc im câu giả từ
Người qua phố chợ chần chừ
Vàng sao cờ đỏ nát nhừ cỏ cây
Chim xưa khuất bóng lầu tây
Hoàng Hạc đâu hỡi về đây gọi hồn
Phong Châu
Tháng 3 – 2020
(*) Hoàng Hà – Dương Tử
                                                                        
Lục Bát Tạ Ơn



Khói sương lãng đãng đã về.
Lá hoa nghe cũng não nề nguồn khơi
Nắng mưa ấm lạnh lẽ trời
Buồn vui mấy nỗi phận người trần gian
Rằng đâu thân được cưu mang
Tháng năm khôn lớn rộn ràng tim ta
Tạ ơn sinh dưỡng mẹ cha
Tạ ơn sông núi bao la đất trời
Tạ ơn người tạ ơn đời
Tạ ơn em đã tặng lời yêu thương
Tạ ơn mẹ những đảm đương
Chắt chiu hạnh phúc vượt đường khó nguy
Tạ ơn ngăn cách chia ly
Tạ ơn sum họp lẽ vì thương yêu
Tạ ơn em dáng mĩ miều
Tạ ơn ta với bao điều đam mê
Tạ ơn lối cũ đi về
Cỏ cây hoa lá cận kề bước chân
Tạ ơn những thoáng bâng khuâng
Tạ ơn mây trắng cỏ hồng xôn xao
Tạ ơn lời hát ca dao
Nắng lên chiều xuống dạt dào Việt Nam
Tạ ơn nghèo đói cơ hàn
Tạ ơn khổ lụy muôn vàn đắng cay
Tạ ơn quá khứ, hôm nay
Tạ ơn phiêu bạt tháng ngày tự do
Tạ ơn trời đất ban cho
Suối xanh dòng ngọt buồn lo nỗi gì
Tạ ơn cơm cháo khoai mì
Tạ ơn dưa muối đền ghì hôm mai
Tạ ơn con đếm một hai
Rưng rưng mắt lệ đọc bài sử xưa
Tạ ơn sớm nắng chiều mưa
Bình minh chợt đến cũng vừa hoàng hôn
Tạ ơn em đẹp tâm hồn
Đường dài mưa nắng dặm buồn thiên di
Tạ ơn mưa nắng thị phi
Người xưa “quẳng gánh lo đi” nhớ lời
Tạ ơn thầy dạy vào đời
Tạ ơn bằng hữu tặng lời an vui
Tạ ơn giọt lệ ngậm ngùi
Mai sau sẽ khóc ta ngoài hư vô…

Phong Châu
 
 
       VẦNG  TRĂNG  QUÊ  NHÀ

Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Những mùa trăng sáng tận bao la                             
 Vầng trăng ấp ủ thương cùng nhớ                           
 Vẫn dõi theo người nơi phương xa
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Thuyền trăng êm chở mộng đi xa                              
Mây trôi nhạc nhã nghìn cung phím                             
Gió thổi thì thào gợn âm ba
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                
Hiên nhà ai vang vọng lời ca                                
Hương lúa đồng xanh mùa đơm hạt                                   
Những cánh cò bay lả bay la
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Vườn xưa rộn rã tiếng reo ca                                     
Có chị bên em cùng sách vở                                                        
Học bài vui cùng tiếng ê a
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                
Rời quê bỡ ngỡ lớp trường xa                                             
Nắng sớm nhởn nhơ bay tà áo                                   
Trăng hẹn cùng ai lên phố xa
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
 Mơ làm thi sĩ mộng văn gia                                
Nguyễn Lưu lạc lối hoa đào mộng                             
Lời tình Xuân Diệu thơ Nguyên Sa
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                      
Thanh bình còn đẹp xóm thôn ta                               
Đường hoa mở lối ươm vườn mộng                           
Hoa đời chưa phủ sóng phong ba
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                          
Theo người về phố thị kiêu sa                                    
Thương cha nhớ mẹ ngày vui hết                            
Thương cả bầu trời rộng bao la
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Rong rêu ngày tháng dấu phôi pha                            
Khổ đau hạnh phúc hoen dòng lệ                                     
Nhân thế đôi bờ nỗi chia xa
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Đêm nghe bom đạn vọng rừng xa                              
Chinh chiến lửa tràn gieo tang tóc                                    
Vợ bỗng xa chồng con xa cha
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Ngày xuân bão nổi dậy phong ba                                
Mây đen che phủ vầng trăng khuyết                        
Trăng đã mịt mờ trong tim ta
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                          
 Không còn vang tiếng trẻ ê a                     
Đường xưa lối cũ trăng mờ khuất                                      
Những nẻo đi về rợn bóng ma
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                         
Đưa người vượt sóng cả đi xa                              
Trăng úa dõi theo người muôn lối                              
Đêm nhìn bóng nguyệt nhớ quê ta
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Trăng treo đỉnh núi muôn trùng xa                    
Chân bước lang thang hồn lữ thứ                              
Ai khóc dùm ta nỗi nhớ nhà
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
 Mong ngày trở lại sẽ không xa                                  
Ôm vầng trăng úa tuôn trào lệ                                               
Ôm cả bầu trời xanh quê cha
Tôi nhớ mãi vầng trăng quê nhà                                 
Vầng trăng thơ ấu của riêng ta                                   
Ngày mai trăng hết cơn phiền muộn                          
 Là một vầng trăng thuở thái hòa
Phong Châu
EM RA ĐI Mùa Thu
Những cây hoa anh đào sau sân nhà tôi đã rụng hết lá để nhô ra những cành xương xẩu – chông chênh – trơ trọi. Mới đây thôi, khi mùa thu đến, mỗi sáng tôi đều phải ra sân sau quét lá, những chiếc lá úa màu teo tóp nằm buồn bã trên nền đất thấy mà tội nghiệp; chúng không còn màu xanh tươi, chúng không còn sức để bám víu vào cành nên chi với chỉ một cơn gió nhẹ thoảng qua là chúng lả tả cuốn theo chiều gió.
Hình ảnh mùa thu hình như ở nơi đâu cũng vậy. Nó ảm đạm đủ để gieo vào lòng người một nỗi buồn vô cớ. Một người dù cho có lạc quan yêu đời cách mấy mà đứng trước khung cảnh mùa thu, nhìn những chiếc lá rơi thì cũng có lúc cũng phải chạnh lòng một cách vu vơ…buồn như một người làm thơ dạo tiền chiến là Xuân Diệu đã viết “tôi buồn không biết làm sao tôi buồn”.
Mùa thu đã đi vào dòng văn học của nhân loại từ đông sang tây, từ cổ chí kim. Vô số thơ văn nói về mùa thu, tả về mùa thu với bao tâm trạng khắc khoải của tâm tư người viết. Năm trước tôi cũng có viết một bài nói về mùa thu và không quên nhắc tới những nhà thơ Việt Nam với những bài thơ thu đã in đậm vào lòng người của nhiều thế hệ Việt Nam. Năm nay không đề cập đến những bài thơ nói về mùa thu nữa mà viết về một bài hát có dáng dấp mùa thu…
Tôi vẫn còn nhiều hệ lụy với mớ ngôn ngữ nói về mùa thu qua những lời thơ tiếng nhạc. Vậy nên, đã từ lâu rồi, mỗi lần có những cơn gió heo may thổi về từ phương bắc là tôi biết mùa thu đã đến và tự mình nhắc nhở bằng câu hát “Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại. Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng âm u…Em ra đi mùa thu, mùa thu không còn nữa. Đếm lá úa mùa thu, đo sầu ngập tim tôi…”. Tác giả bài hát “Em Ra Đi Mùa Thu” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, ông này có thời gian ở ngay trong lòng thành phố Paris nên chẳng xa lạ gì với vườn Luxembourg, nơi đã đem bao nhiêu nguồn cảm hứng không những cho người bản xứ và cả cho những ai có cơ hội đến thủ đô ánh sáng và đã một lần – dù một lần ghé thăm vườn Luxembourg. Không hiểu những lời than oán trong bài hát là chính tâm trạng của tác giả hay là những lời “than vay khóc mướn” cho một mối tình của thiên hạ chỉ còn lảng vảng trong đám sương mù nơi vườn hoa cỏ và chập  chờn trôi theo dòng nước sông Seine?
Lời ca có những câu tiếp: “Ngày em đi…nghe chơi vơi não nề, qua vườn Luxembourg. Sương rơi trên phố mờ, buồn này ai có mua…Từ chia ly, nghe rơi bao lá vàng, ngập ngừng nước sông Seine. Mưa rơi trên phím đàn…chừng nào cho tôi quên…”. Tôi nghĩ có lẽ tác giả đã có một mối tình với một em tóc vàng (hoặc một em tóc đen) nào đó ở kinh thành Paris và rồi ghế đá công viên giờ đây chỉ còn một mình chàng ngồi ngắm lá thu rơi…em đã ra đi…chẳng bao giờ trở lại.
Hình như chàng nghệ sĩ đã có một mối tình…nhưng chàng không có một lời nào mô tả – dù chỉ một mảng nhỏ hạnh phúc hay một khoảnh khắc yêu đương mà chỉ ghi một dấu ấn thời gian vô định “Hôm em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại…”. Hômcủa định mệnh! Hôm của ngày tháng trước, Hôm của năm tháng trước hay là Hôm của tiền kiếp nhân duyên? Cuộc chia ly nào mà không chòng chành những giọt nước mắt dù là nước mắt của người đi hay nước mắt của người ở lại. Đã đến lúc chàng nghệ sĩ không thể nào che dấu mãi tâm trạng “thất tình” của mình để rồi thốt lên “Lá úa khóc người đi, sương mờ giăng lên mi…”. Lá khóc hay làngười ngồi trong công viên khóc? Hay lá khóc cùng người? Lá lìa cành lá khóc. Người lìa người…người khóc. “Sương mờ giăng đôi mi” hay nước mắt đã biến thành một màn sương mờ mờ ảo ảo…
Bài hát của Phạm Trọng Cầu kết thúc: “Em ra đi mùa thu, mùa lá rơi ngập ngừng. Đếm lá úa sầu lên, bao giờ cho tôi quên…”. Dù muốn dù không thì “em cũng đã ra đi”. Không còn gì để níu kéo. Thời gian từ cái “Hôm” nào đó cũng đã thành dĩ vãng chất chồng những lá úa, những chiếc lá định mệnh đã cắm sâu vào trái tim. Quên ư? Biết đến bao giờ….
Có một lần tôi ghé đến kinh thành Paris và đến vườn Luxembourg vào một buổi chiều bầu trời u ám. Tôi lang thang dưới hai hàng cây cây xanh không một bóng người. Những chiếc ghế chong chanh nằm ven hai bên lối đi trải rộng trước mắt. Mùa này lá chưa rụng nên chẳng có ai đến khóc cho mùa thu lá rụng như bài hát em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại…
Phong Châu                                                                                               
                   CÓ MỘT LOÀI CHIM
(Nhớ Trưởng Én Nhanh Nhẹn . Nhà Văn Nhật Tiến)
 
Anh như cánh én lượn bên trời                           
Trang chữ nguồn thơm mãi không vơi                      
 Mãi vang vọng cõi lòng nhân thế                             
Một cõi trần gian mấy kiếp người
Giấy trắng ghi điệu buồn tuổi thơ                 
Những mảnh đời đi giữa bơ vơ                     
Những Người Áo Trắng sầu vạn cổ                     
Tiếng hát nụ cười chỉ ước mơ
Ngơ ngác Thềm Hoang khói phủ mờ      
Những Vì Sao Lạc giữa hư vô   
Mây phủ Hoàng Hôn chiều khuất nắng                   Ánh Sáng Công Viên vẫn đợi chờ
Có một loài Chim Hót Trong Lồng                      
Người về buồn nhớ gió mênh mông                     
Mắt lệ trông theo chiều lá rụng                            
Biết về đâu bốn cõi thinh không
Cánh Cửa vạt sương cuối chân đèo                        
Chiều nghiêng về Vách Núi Cheo Leo                    
Chợt nhớ đến Quê Nhà Yêu Dấu                                  
Cỏ cây hoa lá cũng buồn theo
Thương tiếc chi Một Thời Đang Qua      
Mưa Xuân che khuất bóng quê nhà
Mấy nẻo đi về chừng xa lắm                                   
Bập bềnh con nước cạn bờ xa
Tóc đen, bạc Quê Nhà Quê Người                            Sắc màu năm tháng đã kém tươi       
Tặng Phẩm Của Dòng Sông ngày ấy                           Lau lách ngàn xưa vắng tiếng cười?
Dòng đời đen trắng những nguồn cơn                         
Trở trăn theo Giấc Ngủ Chập Chờn                  
Xuân đến xuân đi làn gió thoảng                              
Bỏ lại sau lưng những giận hờn
Tráng sĩ hôm nay đã Lên Đường                                
Chim trời tung cánh mộng viễn phương                 
Lướt gió thênh thang vào Nguồn Thật                      
Để lại cho đời những vấn vương
 
Hoàng Kim Châu RS                                          
23 Tháng 9 – 2020
Những chữ Nghiêng là tên của một số tác phẩm
của nhà văn Nhật Tiến.
        Grenouillère

Chỗ xưa em ngồi chờ ta                                    
Lung linh con nước bóng tà dương xanh      
 Đôi tà áo vạt mong manh                                
Ta đong đưa thấy yến oanh bên đời                 
Tuổi hồng còn mãi rong chơi                         
Lạnh câm bàn ghế rã rời đợi mong          
 Khói cay thuốc tỏa hương nồng              
Giọt cà phê đắng cũng bồng bềnh trôi     
Cỏ vẫn xanh bên kia đồi                                   
Ta hôn mê nuốt những lời liêu trai                 
Em đi tóc lượt quên cài                  
Để ta ngơ ngẩn dặm bài tình xa
 Phong Châu
tình khúc mùa đông
Em như mây cao ta vực sâu                        
Tình nghe chia cắt mộng ban đầu       
Thảng thốt chim bay qua đầu núi            
Thả gió làm rơi hạt sương đau
Em một phương ta ở một phương              
 Cổ tích từ nay mấy đoạn trường                     
 Em gọi gió đời lên giông tố                               
Ta về ấp ủ một làn hương
Em vui đời lòng ta đắng cay                          
Cây khô mục rữa đá hao gầy                           
Mai kia mốt nọ chim về núi                              
Có lũ côn trùng khóc thương vay
Em đã cùng ta tan giấc mơ                          
Phấn son xưa xóa dấu trăng mờ                       
Mắt môi giờ cũng trơ như đá                                
 Lối cũ đi về nhạt câu thơ
Mai mốt ta về giữa mưa bay                        
Phố xưa sương khói bãi giăng đầy          
Hồ xanh đã biến thành hoang mộ            
Giun dế khóc buồn ai có hay
Rồi mai em về đâu ta đâu 
Giông gió cuồng reo chốn giang đầu            
Nghìn năm núi vẫn còn im tiếng                  
Xin hãy cùng ta chia nỗi đau
Phong Châu
tình tôi                                                           
con dốc nhỏ   
                                
Ta trở về thăm con dốc nhỏ                           
Kỷ niệm rong rêu đã phủ đầy                            
 Đêm cúi xuống hôn từng ngọn cỏ                    
Giọt sương khuya cào cấu đôi tay
Khẽ hỏi thì thầm từng phiến đá              
Dấu chân xưa lạc khuất nơi đâu                                 
Em hiện hữu một đời xa lạ                       
Ta xa xôi nửa kiếp tình sầu
Guốc mộc sáng reo vui dốc nhỏ              
Áo dài chiều nắng vạt tung bay               
Ta cổ thụ giờ như ngọn cỏ                                 
Giọt tình phai trên đá ai hay
Ta hát tình đầu con dốc nhỏ                                
Lời cuồng si của kẻ u mê                                    
Em ra đi hồn sầu bỏ ngõ                                
Con dốc buồn loài dế tỉ tê
Thôi nhé giã từ con dốc nhỏ                  
Hẹn trăm năm với gió cùng mây                      
Còn yêu ta – em nhỏ vai gầy                              
Xin nhỏ lệ mừng vui – vĩnh biệt
Phong Châu 
HT Thích Quảng Độ
1990
Đêm đêm lần bước xuống cầu ao
Bó chân ngồi ngắm cảnh trời cao
Gió gợn lăn tăn trên mặt nước
Sương rơi man mác dưới trời sao
Vận nước đục trong mưa với nắng
Mệnh nhà suy thịnh trăng cùng sao
Trải mấy nghìn năm hồn non nướcc
Ai người chung gánh cuộc lao đao?
Phong Châu
2010
bóng chiều hoàng hạc
Lầu một phương chim một phương                
Lối xưa rủ bóng tà dương mịt mùng                 Hoàng Dương sóng nước chập chùng (*)       
Đất xưa Anh Vũ lệ trùng trùng rơi                   
Nhìn sau cố quận xa vời                                     
Dơi sa Vũ Hán ngút trời khói bay           
Lầu caomời chén rượu cay                               
Ngâm câu thơ cũ ngất ngây tử thần                       
Hồn ma vất vưởng xa gần                                  
Mồ xanh đâu tá lửa trần đốt thiêu                         
Người xưa mắt biếc diễm kiều                         
Mà nay đẫm lệ mây chiều về đâu                            
Chập chờn khóe mắt quầng sâu                      
Đêm nghe tiếng nấc im câu giã từ       
Người qua phố chợ chần chừ                           
Vàng sao cờ đỏ nát nhừ cỏ cây                        
Chim xưa khuất bóng lầu tây                            
Hoàng Hạc đâu hỡi về đây gọi hồn …
(*) Hoàng Hà – Dương Tử
Phong Châu                              T
Tháng 3 – 2020
SỚ TÁO QUÂN 

Cuối năm. Tháng chạp
Ngày đúng hăm ba
Tục lệ gọi là
Tiễn đưa ông Táo
Lên trời báo cáo
Tận chốn thiên đình
Những chuyện linh tinh
Ở nơi trần thế…

Khấu tâu Thượng đế
Suốt một năm qua
Có chiến, không hòa
Khắp trên mặt đất
Nhân mạng tổn thất
Nhà cửa tiêu tan
Thống khổ cơ hàn
Tang thương dâu bể…

Trước tiên phải kể
Tại Ukraina
Cuộc chiến do Nga
Xua quân xâm lược
Đúng hai năm trước
Mãi cho đến nay
Thiên hạ đều hay
Trên đà thất bại
Putin sát hại
Hàng vạn dân lành
Chúng uống máu tanh
Người dân vô tội
Gây nhiều tội lỗi
Trên đất Ukraina
Hãm hiếp đàn bà
Trẻ con bắt cóc…
Chiến dịch thần tốc
Thắng! chỉ ba ngày
Nhưng cho đến nay
Từ thua đến bại
Số trời khó cãi
Tướng tá thi nhau
Đứa trước đứa sau
Đi vào địa ngục
Putin tiếp tục
“Mục hạ vô nhân”
Hù dọa lắm lần
Xài bom nguyên tử
Nhất ngôn nhất cử
Đúng kẻ độc tài
Lời lẽ thị oai
Xem thường thiên hạ…
Chuyện này chẳng lạ
Hồi dạo tháng ba
Đã có trát tòa
Đại hình quốc tế
Dành cho đồ tể
Tên gọi Putin
Đầu sỏ “mẹ mìn”
Tội danh bắt cóc
Định danh trúng phóc
Tội ác chiến tranh
Trát ghi rành rành
Ra tòa luận tội…

Ác nhân đầu mối
Thủ lãnh Wagner
Đâm mướn chém thuê
Tay sai Nga tặc
Chuyên nghề làm giặc
Tội phạm côn đồ
Tiền ủng hậu hô
Giết người cướp của
Phi châu một thuở
Tàn sát dân lành
Chủ nhóm lưu manh
Prigozhin đầu sỏ
Chiến trường rời bỏ
Trở lại đất Nga
Cùng đám lâu la
Quyết làm đảo chánh
Ai ngờ lọt mánh
Kế bẩn Putin
Không trúng đạn mìn
Cũng lăn ra chết…
Chuyện dài chưa hết
Giúp Ukraina
Vũ khí tà tà
Chuyển sang biên giới
Ukraina phấn khởi
Tiêu diệt quân Nga
Sang năm thứ ba
Quyết phân thắng bại…

Nhân loại quá hãi                                        
Chiến trận Trung đông
Hamas chơi ngông
Nửa đêm mở trận
Gây thêm thù hận
Với Israel
Thử lửa một phen
Xuyên qua địa đạo
Quá là tàn bạo
Giết sạch dân lành
Con số ghi rành
Nghìn tư nhân mạng
Cấp cho bom đạn
Từ xứ I Răng
Chiến sự quá căng
Israel nổi giận
Mỗi ngày chục bận
Oanh kích Gaza
Con trẻ đàn bà
Chết oan vô tội
Hamas bí lối
Ẩn náu nhà thương
Do thái chẳng nương
Mở đường tiêu diệt
Hòa đàm đặc biệt
Hưu chiến sáu ngày
Bờ đông bờ tây
Con tin được thả
Bom rơi đạn nả
Hỏa tiễn đua bay
Vần vũ đêm ngày
Gaza tan nát…                                                     
Hoa kỳ bám sát
Yểm trợ Israel
Vài nước ăn theo
Hùa theo Hamas
Xuống đường bài bác
Chống Israel
Đả đảo ì xèo
Từ Âu đến Mỹ…
Nga thường bắt bí
Các nước Âu Châu
Có kẻ thụt đầu
Sợ Nga như cọp
Nato hội họp
Số phận Phần Lan
Luận luận bàn bàn
Thuận đơn gia nhập…
Nhiều điều bất cập
Lắm chuyện xảy ra
Từ nước chú Ba
Trung hoa cộng sản
Quyết đánh tư bản
Tiêu diệt tư do
Ra sức chăm lo
Chiếm sông lấn biển
Gây nhiều tai tiếng
Chiến lược vòng đai
Bẫy nợ dài dài
Từ Phi đến Á
Xưng hùng xưng bá
Lấn chiếm biển đông
Súng đạn chỉa nòng
Đài Loan đảo quốc
Ngoại giao phét bốc
Ngôn ngữ sói lang
Dân chúng chẳng màng
Trong cơn đói khổ
Thần là Táo mỗ
Tâu tiếp chuyện nhà
Tục gọi Cờ Hoa
Hay là Mỹ đế
Các nước đều nể
Nước mạnh dân giàu
Kinh tế hàng đầu
Ai ai cũng khoái
Nhưng mà phải nói
Từ mấy nămnay                                                  
Ban mặt ban ngày
Lắm tên cướp bóc
Bị bắt ngay chóc
Lại được thả ngay
Chúng lại phây phây
Lên đường cướp tiếp…
Mọi người đều biết
Chuyện dài di dân
Già trẻ rần rần
Vượt biên trái phép
Leo qua tường thép
Chui lưới kẽm gai
Ngày đêm miệt mài
Tràn qua biên giới
Texas ơi ới
Phản đối chính quyền
Khuyến khích vượt biên
Nhận người vô hạn
Lại còn tệ nạn
Vật giá gia tăng
Đồng lữa đồng lần
Thắt lưng buộc bụng
Mấy ngài to bụng
Ở chốn nghị trường
Đánh đấm chẳng nương
Quyết tâm hạ thủ
Chị lừa Dân chủ
Anh Voi Cộng hòa
Luôn mãi bất hòa
Chủ trương chính sách…

Bị nhiều chê trách
Cụ Mac Kathy
Xách cặp ra đi
Johnson thay thế
Voi Lừa vạch kế
Tranh cử sang năm
Biết ai vào nằm
Giường êm Bạch ốc
Nữ nam thống đốc
Của đảng Cộng hòa
Bù lu bù loa
Rủ nhau tranh cử
Bố Trâm tự xử
Du thuyết một mình
Không muốn ràng rinh
Lên sàn tranh luận
Bai Đần xử dụng
Chiếc ghế đang ngồi
Tuyên bố rằng “tôi”
Cũng ra ứng cử
Tuổi già ứ hự
Té xuống té lên
Muốn một mình ên
Ngai vàng ngồi tiếp…
Chuyện này nghe khiếp
Tuồng cũ tích xưa
Dính dáng dây dưa
Anh chàng tên Kít (*)
Ngoại giao lá mít
Bán đứng đồng minh (**)
Đi đêm tư tình
Với thằng trung cộng
Ngoại giao bóp họng
Bại hoại vô luân
Cách nay mấy tuần
Vừa lăn ra chết…
Năm Tây đón tết
Ngày một tháng giêng
Chuyện quả là phiền
Ở nơi nước Nhật
Xảy ra động đất
Bảy độ + rich-te
Nhà của sập đè
Mấy trăm người chết
Điện nước cúp hết
Lại có sóng thần
Nước uống thức ăn
Vô cùng thiếu hụt
Có vùng bị lụt
Di chấn xảy ra
Kéo cửa lôi nhà
Trôi theo hà bá…
Xem ra chẳng khá
Ấy chuyện Việt Nam
Một lũ quan tham
Hiếp dân bán nước
Dân nghèo xơ mướp
Quan sống lầu cao
Rối loạn cào cào
Tệ đoan xã hội
Chúng gây lắm tội
Gái điếm mãi dâm
Xuất khẩu liền năm
Cu li lao động
Đè đầu chặn họng
Ngoáy mũi người dân
Lợi lộc chia phần
Quan to cán lớn
Có chuyện cà chớn
Giải cứu cu li
Tiền bạc phải chi
Để đưa về nước
Số tiền tính ước
Cả tỷ đô la
Nát cửa tan nhà
Dân nghèo nước Việt
Một bầy chết tiệt
Hùm sói hung hăng
Công an lãnh phần
Còng tay bắt bớ
Tội danh ấm ớ
Cướp đoạt nhân quyền
Lươn lẹo đảo điên
Hại người vô tội…

Quy trình cơ hội
Cướp đất của dân
Dấy máu ăn phần
Quan tham đầu sỏ
Đầu đường cuối ngõ
Cảnh sát công an
Tay – rất sẵn sàng
Nhận tiền hối lộ
Mọi nơi mọi chỗ…                                                        
Bức hại giáo dân
Đủ mọi thành phần
Tin lành Công giáo
Diệt tiêu rốt ráo
Phật giáo Việt Nam
Đối xử dã man
Người dân miền núi
Không chịu luồn cúi
Dưới ách gông cùm
Lãnh số phận chung
Ngục tù tăm tối…

Chính là đầu mối
Chủ nghĩa mác lê
Thối tha ê chề
Đã vào sọt rác
Thế mà thằng bác
Hồ hỡi chôm về
Liềm búa để kê
Cổ – đầu dân Việt
Chủ nghĩa chết tiệt
Bán nước hại dân
Chúng sẽ lãnh phần
Tru di cửu tộc…
Thần xin bạch bộc
Một tí gọi là
Nhắc đến phe ta
Gọi là Văn Bút
Điểm qua một chút
Cớ sự trước sau
Được biết từ lâu
Việt Pen hải ngoại
Văn thơ đủ loại
Kết tụ tài nhân
Chung sức giữ phần
Tinh hoa nước Việt
Xiển dương đặc biệt
Hai chữ Tự Do
Viết lách chăm lo
Văn chương thi phú
Thần đây chí thú
Nguyệch ngoạc bấy nay
Chữ nghĩa chưa đầy
Tính ra nửa túi
Bỗng có người xúi
Vào hội Bút Văn
Hẹn lữa hẹn lần
Nay đà nhập hội
Thần đây phải vội
Cám ơn hai người
Chị tính vui tươi
Tên là Lan Nữ (***)
Người kia tên chữ
Là Thúy Messegee
Đơn đã gửi đi
Đầu năm chấp thuận
Dày công tạo dựng
Chị Cung Thị Lan
Chức danh trưởng tràng
Bút Văn Hải Ngoại
Có vùng được gọi
Đông Bắc Hoa Kỳ
Chủ tịch nữ nhi
Mỹ danh Hồng Thủy
Thần bèn suy nghĩ
Chữ nghĩa bổn nhà
Viết lách qua loa
Ở nơi xó bếp
Bây giờ được xếp
Vào hàng thi nhân
Lo sợ muôn phần
Đành theo duyên hạn…
Giờ thần tản mạn                                                  
Cùng với Ngọc hoàng
Thần rất hân hoan                                         
Bám đuôi cá chép
Lệnh tuân một phép
Phi thẳng lên trời
Tâu chuyện khắp nơi
Mong ngài thấu tỏ…
Thần xin nói rõ                                                     
Tháng chạp năm nay
Lê tấm thân gầy
Thiên đình đáo nhập
Lại còn được gặp
Thiên đế Ngọc hoàng
Lòng dạ mở toang                                                
Đón chào Táo mỗ
Thần đây ngửa cổ
Trình tiếp lên ngài
Ngày một ngày hai                                               
Nữa là đến tết
Năm Mèo sắp hết
Thời tiết sang xuân
Pháo nổ tưng bừng                                                 
Năm Rồng lại đến
Bao nhiêu rác rến
Tống ra khỏi nhà
Con cháu mẹ cha
Cùng nhau vui tết
Vợ thần lo hết
Mua sắp thức ăn
Gà lợn mười cân
Bò dê chín ký
Lại còn mấy tí
Bánh tét bánh chưng
Mứt bí mứt gừng
Rượu nồng dưa hấu
Cùng đàn con cháu
Họp mặt vui xuân                                         
Nâng “Ly Rượu Mừng”
Năm Rồng may mắn…
Giờ Thần xuốngtấn                                             
Kính chúc Ngọc hoàng
Long thể an khang
Tinh thần minh mẩn
Nếu ngài không bận
Ghé xuống trần gian
Ngắm cảnh cơ hàn
Thương người nhân thế…
Thời gian đã trễ
Thần phải lên đàng
Trở lại thế gian
Ngọc hoàng vạn tuế                                              
Vạn vạn vạn tuế…

Phong Châu
 
(*) Henry Kisinger
(**) Việt Nam
(***) Dịch giả Thái Lan
Saint benoit
Em đi về Saint Benoit                                    
Dưới chân em bỗng cỏ hoa rủ sầu                 
Giọt mưa rơi mưa rơi mau                               
Đôi hàng thông cũng nát nhàu tương tư      
Mắt em ai vẽ nhân từ                                     
Nụ cười Di Lặc hiện từ thuở nao                   
Anh vô thường dưới trăng sao                      
 Dấu chân Từ Thức lối nao tìm về                  
Guốc vông – sách vở – tóc thề                       
 Đi trong sương sớm cận kề hư vô          
Theo em gõ nhịp chân hờ                             
Nghe trong tuổi đá cũng mờ vàng phai
  Phong Châu
tháng 5.
đà lạt

 
Đà lạt mỗi ngày. Sáng. Chiều. Trưa      
Tháng 5. Anh nhớ trời đổ mưa                        
Chân em qua ngõ. Buồn vai áo                         
Tóc xỏa bên trời. Mây lưa thưa
Em đi. Giữa đôi hàng thông xanh                 
Có con chim nhỏ. Hót trên cành                       
 Em vui. Như thể ngày xuân đến                        
 Đâu biết có người buồn. Như anh
Đường qua nhà em. Lối nhỏ quanh         
Sương mai nhòa nhạt.  Áo thiên xanh           
Chân mang hoa cỏ. Vào cửa lớp                 
 Em như sương. Như khói mong manh
Rồi từng ngày qua. Từng ngày qua          
Đường đời phiêu lãng. Lời Du Ca          
Nước non rồi cũng ngăn. Nghìn lối             
Biển cát đôi đường. Cũng chia xa
Tháng 5 rồi. Em ở phương nao                  
Nhớ xưa Đàlạt. Cơn mưa rào                             
Ngồi soi tóc bạc. Chòm mây trắng                  
 Vui buồn ai biết . Tình hư hao
 Phong Châu
đêm dài
Gối tay thao thức trọn năm canh                      
Nuôi mộng tàn đêm mộng chẳng thành        
Giận chú chim kêu lừng buổi sáng                     
Hờn anh dế gáy vọng đêm thanh
Thêu bao mộng ước tay còn trắng                   
 Dệt mấy ân tình tóc biếng xanh                               
Đã biết bao đêm chờ đợi sáng                          
 Ngộ đời mộng mị mãi lanh quanh
Phong Châu 
hoài  cảm  
Quá nửa đời người vẫn trắng tay           
Sao lanh quanh mãi thế gian này                      
Ngẫm cuộc nhân sinh càng thêm ngán              
Suy vần thế sự chửa hết cay
Cố quốc đường mây chừng xa lắc                    
 Quê nhà sương khói mịt mờ bay                    
 Cánh nhạn lênh đênh trời viễn xứ                    
Hồn quê ấp ủ kiếp lưu đày
  Phong Châu            
biển
Những bước chân khua ánh mặt trời                
 Buồm căng theo gió vượt trùng khơi               
Tử địa xua người ra hải lộ                                   
 Bến bờ thấp thoảng áng mây trôi
Biển dậy phong ba tiếng thét gào           
Bập ềnh thuyền giữa cõi trăng sao                   
Biển cuốn em lên đầu ngọn sóng                     
Biển lùa mẹ xuống đáy vực sâu
        
núi và sông
Núi vẫn âm thầm ôm bóng mây                       
Sông soi bàng bạc ánh trăng gầy                     
Núi sông đôi bóng hình chung thủy                      
Mây cùng trăng từ đâu tới đây
Sáng núi ngân vang khúc dặm đường              
Chiều sông đồng vọng tiếng quê hương              
Ai đem ta đến sông cùng núi                          
Tình lụy nhau rồi chẳng thể buông
   Phong Châu 
10 dạo khúc
Núi
Leo lên đỉnh núi ngắm sao
Mang theo lều gậy dựng cao tới trời
Khoanh tay dưng dửng chuyện đời
Ông sao thấy hỏi thảnh thơi thế à…
Rừng
Vô rừng nhặt được câu thơ
Tiếng kêu khách lạ giả vờ không nghe
Mùa hè được nghe tiếng ve
Mùa thu xem lá sắc hoe đỏ vàng
Sông
Lội sông đến tận cội nguồn
Đôi bờ lau lách suối tuôn mấy dòng
Ừ thì nước đổ ra sông
Thuyền dù xa bến cũng mong đổ bờ
Biển
Ra biển nhớ người vượt biên
Buồn cho vận nước đảo điên tới giờ
Biển đưa người vượt sang bờ
Tóc xanh nay đã bạc phơ mất rồi
Trăng
Trăng treo lơ lửng biển trời
Có anh cuội nhỏ cứ mời lên thăm
Xin chờ cho đến trăng rằm
Hằng nga rõ mặt ghé thăm cũng vừa
Sao
Có bao nhiêu sao trên trời
Tôi ngồi tôi đếm cuộc đời được thua
Rằng chẳng được cũng chẳng thua
Xem ra được mớ già nua trên đầu
Sương
Nắng mai chọc thủng sương mù
Cũng làm cho bớt âm u cõi lòng
Đôi chân ta chạy vòng vòng
Một đời nhân thế mặn nồng hư không
Mưa
Giọt mưa và giọt mưa rơi
Ngút ngàn ân huệ từ trời tặng ban
Cây khô đứng giữa hai hàng
Có một chiếc lá vội vàng chao rơi
Gió
Lên đồi gọi gió hôm nao
Nhớ xưa lũng thấp đồi cao chập chùng
Tóc mây khua gió bập bùng
Dặm đường tí tách lửa rừng reo vui
Nắng
Thuở xưa vui bước lên đàng
Ba lô trĩu nặng nắng vàng mang theo
Mây xa ở cuối chân đèo
Giờ thì ngồi nhớ để hiu hắt buồn
Phong Châu 
Phiếm Năm Con Rồng
Tôi đã đặt cả hai chân lẫn hai tay và một cái đầu vào những ngày đầu tiên năm thứ 24 của thế kỷ 21. Coi như một phần tư thế kỷ. Một phần tư thế kỷ đâu phải là ít. Nhưng cũng chưa phải là nhiều. Hình như tôi hơi tham lam khi nhớ lại lúc còn sống trong ngôi nhà xã nghĩa đại đồng vì tôi đã từng ao ước “được sống đến ngày đầu tiên của thế kỷ thứ 21”. Đúng là loại “ước mơ hão huyền” quá tầm với của tôi vào thời gian nhìn thấy người ta cứ rủ nhau mườm nượp lên thuyền (chứ không phải là tàu) vượt biên, rồi cũng lắm người leo lên máy bay xé mây để đi đến “Tây Phương Cực Lạc”.
Thế mà tôi – rốt cuộc cũng được làm thân tỵ nạn tại đất nước Hoa Kỳ này đã ngoài ba mươi năm và điều khiến tôi vui nhất là đã “được sống đến ngày đầu tiên của thế kỷ 21”. Chẳng những thế mà tôi đã sống được gần một phần tư thế kỷ. Cũng nhớ lại, từ ngày đầu thế kỷ đến nay tôi đã trải qua rất nhiều lần được đánh đu theo con Rồng sắt để đi nhiều nơi trong thiên hạ. Năm Rồng đầu tiên của thế kỷ 21 là năm 2000, kế đến là năm 2012 và hiện tại là 2024. Trí nhớ của tôi đã cùn lụt ở tuổi tám mươi nên chỉ nhớ vài mẫu chuyện của hai năm Rồng: Rồng Canh Thìn 2020, Rồng Nhâm Thìn 2012. Nhớ tới đâu viết tới đó cho vui vậy thôi và một cách để luyện trí nhớ.
Trước hết với năm Rồng 2000. Dạo đó bàng dân thiên hạ gọi là Y2K (Year of 2000). Những tháng cuối của thế kỷ 20 tin tức lề phải, lề trái, lề giữa, lề trước, lẫn lề sau… đều có đưa tin: Vào đúng thời điểm giao thừa của năm 1999 -2000 thì toàn thể nhân loại sẽ văng biến ra khỏi mặt đất, hay nói nôm na là “tận thế”. Xuất phát từ nơi đâu tôi cũng không nhớ nhưng tin “tận thế” đã khiến cho sáu bảy tỷ người đang sống trên mặt đất phải nhảy nhổm lên như mông chạm phải lửa. Tin đồn từ người này qua người khác, từ nhà này sang nhà khác…rồi từ nước này qua nước khác… từ Á sang Âu, từ Phi sang Mỹ sang Úc…Người ta nói rằng ngày tận thế đã được các nhà tiên tri nói tới cách nay cả vài trăm năm như Nostradamus hay vài chục năm như bà mù Baba Vanga. Mấy chục năm nay cứ mỗi lần có một biến cố nào “xấu” thì thấy một số các ông bà làm báo “đời”, các nhà bình “loạng quạng” lại có cơ hội móc tên ông Nostradamus hay bà Vanga ra để
rồi gán cho họ đã tiên tri đúng phóc chuyện vừa xảy ra. Tôi cho rằng những lời tiên tri thường được luận giải thông qua lăng kính “chụp mũ” nghĩa là khi có những “việc xấu” như động đất, núi lửa, sóng thần, chiến tranh…xảy ra thì tên các nhà tiên tri được móc ra để rồi bảo họ đã tiên tri đúng trăm phần trăm. Chẳng hạn khi chiến tranh Nga – Ukraina xảy ra thì người ta lôi ông Nostradamus và chụp cho ông là đã tiên tri đúng như trên một trang mạng đã viết như sau: “Ông Nostradamus viết trong năm 2022 “giá bột mì cao đến mức khiến con người chấn động và nhân loại rơi vào cảnh tuyệt vọng”. Lời tiên tri này đúng với khủng hoảng lương thực do ảnh hưởng từ xung đột Nga – Ukraina. Ông cũng viết rằng: “Cá sống ở Biển Đen sẽ bị luộc chín” và nhân loại lâm vào cảnh thiếu ăn. Biển Đen năm 2022 là điểm nóng xung đột Nga – Ukraina khi soái hạm Moskva bị đánh chìm và Nga phong tỏa khiến Ukraina không thể xuất cảng lương thực”.
Nếu chỉ đọc thoáng qua thì có vẻ tiên tri của Nostradamus đúng với sự kiện đã xảy ra từ xung đột Nga – Ukraina.  Nhưng nói “giá bột mì cao đến mức khiến con người chấn động và nhân loại rơi vào cảnh tuyệt vọng” thì quả là hàm hồ quá mức. Việc thiếu lương thực do Nga phong tỏa chỉ ảnh hưởng đến một số nước ở Phi Châu cũng chưa khiến con người chấn động” “nhân loại rơi vào cảnh tuyệt vọng”. Đúng là lời của những thầy bàn “vô tội vạ”. Những lời bàn này gây hoang mang cho mọi người.

Năm Con Rồng 2000 (Y2K) người ta lôi những lời tiên tri của Nostradamus làm luận cứ cho “ngày tận thế” khiến nhân loại hoang mang đến mức náo loạn. Người ta ùn ùn kéo nhau ra chợ mua đủ mọi thứ mang về nhà tích trữ vì sợ “tận thế” không còn thức ăn. Nghe nghịch lý. Đã tận thế, chết hết ráo còn ăn uống cái nỗi gì? Lạ thật! Trong các chợ người ta vơ mua không còn một thứ gì trên các kệ hàng, nước – gạo – mắm – muối – cá – thịt – mì gói – bột- đường và cả giấy đi cầu…không còn thứ gì. Tháng 12 năm đó thiên hạ thuộc các sắc dân trắng đen nâu vàng không còn tha thiết gì với mùa lễ Giáng Sinh và Năm Mới. Người người đang chuẩn bị chết!
Rổn rảng nhất là những lời đồn đoán (tiên tri!) rằng phút đầu tiên của năm 2000 trái đất sẽ quay về thời kỳ đồ đá vì có sự trục trặc từ cách ghi thời gian của hệ thống máy tính. Biến cố này được gọi bằng những tên Y2K Problem, Y2K Scare, Y2k Bug, Y2K Error, Millennium Bug…khiến hệ thống máy tính sụp đổ làm cho hệ thống giao thông trên toàn cầu bị ngưng trệ và tất cả những cơ quan xử dụng máy tính đều phải “phẹt mê bu tích”, sinh hoạt của nhân loại chìm vào bóng tối. Không còn ai sống sót! Nghe ra thật kinh hoàng! Tôi đã đặt câu hỏi: “Tại sao các ông các bà thầy bàn lại biết được rằng ở giây đầu tiên của năm 2000 lại có sự trục trặc của hệ thống máy tính trên khắp toàn cầu?”.

Nhưng rồi lạ thay! Mười giây cuối cùng của năm 1999 tại thành phố New York người ta vẫn count down… ten…nine…eight…two…one…zero và thiên hạ reo mừng năm 2000 đã đến và năm Con Rồng sau đó lại tà tà xuất hiện vào ngày 5 tháng hai của năm Y2K. Kẻ này không tin vào chuyện tận thế nên đã xin bề trên một nghìn đô để mua một chai rượu Cognac Millennium 2000 hiện vẫn còn nằm trong tủ rượu, lâu lâu lấy ra nhìn cho cho vui con mắt, hẹn có dịp vui để khui mời bạn bè ăn mừng. Tin mừng đã đến: Nhân ngày quốc tế nhân quyền hôm 10 tháng 12 – 2023 có nghe mấy con vượn tuyên bố với toàn nhân loại rằng rằng: “Ngày 31 tháng 12 – 2099 Việt Nam cam kết sẽ thực hiện nhân quyền”, nghĩa là còn đúng 75 năm nữa. Đây mới là sự kiện đáng ăn mừng! Tôi sẽ khui chai rượu Millennium Y2K! Và muốn khui chai rượu đầu thế kỷ thì phải đợi cho đến cuối thế kỷ! Như vậy tôi phải sống đến 155 tuổi để được uống rượu Millennium Y2K. Nhưng theo truyền thống tốt đẹp lâu đời của các ngài đỉnh cao trí tệ thì “cam kết” là một chuyện, còn “thực hiện” hay không là chuyện khác. Không chừng tôi phải sống qua đến thế kỷ hai mươi hai để được nhâm nhi Cognac Millenniun năm 2000…
 
                                                ***

Thứ đến là chuyện năm Rồng 2012. Năm này có lẽ còn căng hơn năm “con bọ Y2K”. Từ tháng 10 tôi đã nghe râm rang truyền miệng là “Tận thế sẽ diễn ra vào đúng vào ngày 21 tháng 12 – 2012”. Tin này đầu tiên loan ra từ một một vị mục sư cho các tín đồ và được nhanh chóng đến tai mọi người trên khắp toàn cầu. Ngoài những lời phán chắc như đinh đóng cột (cột bằng gỗ lẫn cột bằng đá) của vị mục sư, còn có vô số nhà tiên tri mới mọc cùng các “mê tín gia”, các nhà “thời cơ” luận luận bàn bàn hết sức rum beng khiến tác động đến đời sống của cả nhân loại. Hình ảnh của những nhóm thổ dân miệt Trung mỹ lập đàn khấn nguyện xin đừng động đất, các ông thầy cúng ở Ấn Độ cũng dựng đàn khấn vái tứ tung. Ở Pháp người ta rủ nhau chạy đến một thành phố (không nhớ tên) để khỏi chết vì nơi đó “không tận thế”. Thực tế nhất là ở Hoa Kỳ, nhiều nơi người ta đào hầm sâu xuống lòng đất đến năm bảy mét rồi xây nhà lập phòng và các tiện nghi khác để tránh tận thế, có những căn nhà bề ngang ba mét, dài năm mét được lắp bằng những tấm thép giá cả trăm nghìn đô la. Thứ ít tiền hơn thì người ta chỉ đặt những ống thép dưới lòng đất ba thước (không phải ba tấc) và ai muốn xuống trốn dưới đó thì cứ đến đó mà chui xuống “ống mồ” mà núp…Kể sơ thôi chứ nhiều chuyện xảy ra nghe nực cười lắm. Ngoài ra, bổn cũ được soạn lại chu đáo hơn là màn đi vét các thức ăn thức uống ở các chợ Việt chợ Mỹ chợ Tàu… lẫn chợ Mễ chợ Đại Hàn…

Nhiều nhà tiên tri mới không tên tuổi vin vào ý kiến của các nhà chuyên nghiên cứu lịch sử nhân loại cho rằng: Người Maya vào thời cổ đại ở vùng Trung mỹ đã có một nền văn minh huy hoàng và họ là người đã phát minh ra cách tính lịch còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Theo đó, lịch Maya được hình thành vào 250 đến 900 năm sau công nguyên và được quay vòng theo các chu kỳ. Năm 2012 là thời điểm kết thúc của một chu kỳ nhỏ thuộc một chu kỳ lớn (?). Đó chính là thời điểm “tận thế”, trái đất sẽ bị chôn vùi trong những trận động đất và hỏa hoạn sau khi bị một tiểu hành tinh đâm xuống trái đất đúng vào ngày 21 tháng 12.
Năm 2000, tôi còn nhớ vào lúc quả cầu sáng từ thành phố New York vừa chạm số zero và bản nhạc Auld Lang Syne cất lên thì cả nhà chúng tôi tuy đang ngồi nhà vẫn cùng nhau nâng ly “Chúc Mừng Năm Mới”. Do cảm nhận từ Y2K nên giao thừa của 2012 chúng tôi cũng lặp lại bài bản cũ: không chạy đi mua thức ăn cho ngày tận thế và cũng nâng ly “Chúc Mừng Năm Mới” đồng thời gửi lời chúc đến cho bạn bè thân quen ở khắp mọi nơi.  
                                                ***
Năm nay 2024. Âm lịch là năm con rồng – năm rồng thứ ba của thế kỷ 21. Cũng như rất “thông lệ” khi trận động đất tại Nhật Bản xảy ra vào ngày đầu năm dương lịch thì lập tức hôm sau đã thấy vài email chuyển đến cho biết là bà Baba Vanga đã tiên đoán trúng phóc biến cố chết người này. Tôi tính hay nghi ngờ nên đặt vấn đề: “tại sao các nhà chuyên theo dõi để đọc để nghe các lời tiên tri của bà Vanga không báo trước cho bàng dân thiên hạ biết để đề phòng bằng cách di tản ra khỏi khu vực có động đất mà mãi sau khi động đất mới đi mò tìm tiên đoán của bà và cho rằng “đúng phóc”? Dạo biến cố 911 xảy ra năm 2001 cũng vậy, sau khi có hơn ba ngàn người chết bởi vụ đâm máy bay vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước thì người ta mới lôi những tiên đoán của bà Vanga ra và cũng phán rằng bà Vanga nói “trúng phóc”. Tình trạng này đã diễn ra cả thế kỷ nay và hình như đây là công việc chính của những nhà mê các lời tiên tri sau những biến cố. Kẻ này không hiểu nỗi!
Tết con rồng thứ ba của thế kỷ 21 sẽ bắt đầu từ ngày 10 tháng 2 – 2024. Mong rằng suốt năm con rồng đừng có thêm biến cố chết người để khỏi nghe các lời bàn của các nhà mê tiên tri trừ các cuộc chiến đã và đang xảy ra tại Đông Âu và Trung Đông.
Phong Châu
Truyện Ngắn Những Chiếc Bánh Bao

Vào ngày lễ Giáng sinh, như mọi năm, cư dân sống quanh khu vực phía bắc cầu Trường Giang, một số rất ít người, từ sáng sớm đã lặng lẽ đi đến nhà thờ để dự lễ chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ vì chính quyền địa phương thông báo là giáo đường không được cử hành lễ lâu hơn thời gian đã quy định, cũng không được cử hành lễ vào buổi chiều và ban đêm. Những người đến dự lễ hỏi nhau tại sao thì không một ai trả lời được.
Bà Weng Show trở về nhà với nỗi lo âu. Bà tính là chỉ còn một tháng nữa là tới ngày tết nguyên đán. Cũng như mọi năm, bà sẽ mua sắm đủ các thứ để trưng bày trong nhà và mua thêm nhiều thức ăn đặc biệt rồi do chính tay bà nấu cho cả gia đình và cả bạn bè, hàng xóm đến thăm có cái ăn trong ba ngày tết. Ngoài ra bà cũng không quên sẽ ghé quày bán các mặt hàng trang trí để thỉnh về một chú chuột vàng mà bà đã nhìn thấy trên các màn ảnh ti vi, bà sẽ đặt chú chuột vào một nơi trang trọng nhất trong nhà để quanh năm suốt tháng gia đình bà sẽ gặp nhiều điều may mắn như những lời quảng cáo ra rả mấy tháng nay để hối thúc mọi người hãy mau mua chuột vàng mang về kẻo hết. Bà sẽ mua tặng cho chồng một chiếc áo ấm mới và cả hai đứa con gái của bà, mỗi đứa một túi xách tay loại hàng hiệu Coach mà chúng hằng mơ ước. Chồng bà là bác sĩ hiện đang làm việc tại một bệnh viện ở thành phố Đông Hồ nằm trong địa phận tỉnh Hồ Bắc. Hai con của bà đều đang theo học đại học tại Thượng Hải, chúng trọ ở nhà của người em ruột của bà từ hơn hai năm nay.
Đã hơn tháng, lúc đi nhà thờ, khi đi chợ bà được nghe nhiều người nói đến hình như là sắp có một sự kiện gì đó rất quan trọng xảy ra cho thành phố Vũ Hán. Bà cho đó là những tin đồn vô căn cứ mà đã từ lâu dân Vũ Hán đã quen với những tin kinh thiên động địa chẳng hạn như tin tận thế vào năm 2000, hai mươi năm trước đây, rồi cũng tin về tận thế năm 2012 và nhiều tin động trời khác nữa. Những dịp này dân chúng trong thành phố bày nhiều trò cúng kiến cầu khẩn, đến đình chùa miếu mạo đóng tiền xin lễ để mong cho “tai qua nạn khỏi”. Và rồi chẳng thấy chuyện gì xảy ra. Lần này bà Weng cũng cho là những tin đồn nhảm nhí như bao lần trước. Tuy nhiên bà vẫn thường xuyên nghe ngóng tin tức ở mọi bề, trên các đài phát thanh và truyền hình, kể cả những tin được cho là rò rỉ từ khắp mọi nơi lọt vào tai bà. Bà lo lắng và thường xuyên gọi cho hai con ở xa. Đối với ông Nhậm Chí Cường, chồng bà thì năm nay không được nghỉ vào dịp lễ Giáng sinh, theo lời ông là đang chuẩn bị lo tết cho bệnh viện nơi ông làm việc. Bà Weng lại nghĩ, chắc năm nay trong bệnh viện các nhân viên và bệnh nhân ăn tết lớn. Chuyện này vẫn thỉnh thoảng xảy ra trong quá khứ mỗi khi có các lãnh tụ cấp cao đến thăm bệnh viện trong những dịp lễ hay tết nguyên đán. Bà cũng yên tâm như mọi năm.
Kể từ ngày rằm tháng chạp âm lịch, khi màn đêm buông xuống ở khắp mọi nơi, cư dân phía bắc cầu Trường Giang được nghe từ các loa phóng thanh “mọi người không được đi ra ngoài vì thời tiết rất xấu có thể xảy đến bất ngờ”. Bà Weng liên tục mở màn ảnh ti vi từ đài trung ương cho đến các đài địa phương đều không có tin tức thời tiết như đã được báo động. Bà thắc mắc và nghi ngờ nhưng không tìm ra được câu trả lời nào cả. Mỗi sáng sớm bà đến nhà thờ để hỏi thăm cha xứ xem có chuyện gì xảy ra thì cha xứ cũng chỉ nói cho bà biết những gì mà cha đã nghe từ mấy chiếc loa và các đài của nhà nước. Cũng có những giáo dân đến nói với cha những tin tức họ nghe người này người nọ nhắc đến như một cơn bệnh sẽ bộc phát tại thành phố Vũ Hán có thể giết cả hàng triệu người. Cha dặn bà là phải cẩn thận, không nên phát tán những gì cha nói với bà để tránh bị vạ lây, nguy hiểm lắm! Kể từ hôm đó bà thấy dân chúng kéo nhau đi mua thức ăn và các vật dụng cần thiết khác để dự trữ. Các chợ và quày bán thực phẩm đã diễn ra cảnh xếp hàng dài dằng dặc và chen lấn chửi bới nhau để giành mua thức ăn, bà cũng cố chen vào dòng người đó để mua mang về được một mớ thực phẩm, trong đó có những thứ gia đình bà không bao giơ ăn đến, thấy thiên hạ vơ vét mọi thứ nên bà cũng phải làm như vậy mà thôi.
  Cho đến một buổi chiều, sau khi bà đặt mâm cỗ bên trong nhà để cúng đưa ông Táo về trời (*), thì tất cả đèn trong nhà bị tắt ngấm. Bà đến trước bàn thờ chụp vội chiếc đèn bạch lạp đang cháy đặt ngay giữa căn phòng để có chút ánh sáng. Bà tiến đến cửa trước vạch màn nhìn ra ngoài thì trời ơi, bà la lên một tiếng hốt hoảng khi bên ngoài là cả một vùng bóng tối, không một chút ánh sáng và cũng không nghe cả một tiếng động.Tất cả những đèn ngoài đường đều tắt ngấm. Cả người bà toát mồ hôi và một cơn lạnh buốt chạy suốt sống lưng của bà. Bà phải cố bình tĩnh và vịn men theo vách tường đến ngồi vào sofa. Một sự im lặng rợn người cùng với bóng tối bủa vây cả thành phố. Đang miên man lo sợ không biết chuyện gì xảy ra thì bỗng nhiên có tiếng loa vang hình như từ tứ phía vọng vào tai bà, bà nghe không rõ cả một loạt thông báo dài nhưng đại để là đảng và nhà nước ra lệnh cho nhân dân thành phố Vũ Hán kể từ 12 giờ khuya đêm nay không được ra khỏi nhà, đây là lệnh giới nghiêm cho cả thành phố, ai trái lệnh sẽ bị trừng phạt thích đáng…
Liên tục nhiều ngày sau, bà gọi điện thoại cho chồng là ông Nhậm Chí Cường, cho cả hai đứa con gái ở Thượng Hải nhưng các đường dây điện thoại đã bị cắt. Bà gọi cho một số bạn bè và cả người hàng xóm thì tất cả mọi nơi đều im hơi lặng tiếng. Ban ngày, hé màn cửa nhìn ra ngoài thì bà có cảm tưởng chừng như mười một triệu người dân Vũ Hán đã biến đi đâu mất, thỉnh thoảng mới thấy một vài chiếc xe chạy vụt qua, trên đường không người đi, rác từ trong nhà đã tràn ra vệ đường, không người quét dọn…Nhìn phía xa chút nữa nơi công viên cạnh bờ sông, mỗi ngày đều có người già đến đó để tập thể dục, trẻ con đến vui chơi thì nay không một bóng người. Bà quay lưng vào và buột miệng nói “thành phố ma!”.
Mỗi ngày bà cố gắng gọi điện thoại cho chồng và hai con nhưng đều vô vọng. Bà lặng lẽ trong căn nhà rộng với tâm trạng hoang mang lo sợ tột cùng.
Bỗng một hôm bà nghe tiếng điện thoại reo và nhận ra số điện thoại của chồng bà. Bà cuống quýt mừng vui nhấc điện thoại và hỏi thăm rối rít…anh đang ở đâu? anh đang làm gì? anh có khỏe không? anh có thứ gì để ăn không? …Ông Nhậm Chí Cường chỉ nói cho bà biết là ông rất khỏe và đang được chuyển đến một bệnh viện khác. Chỉ chừng ấy thôi là điện thoại cúp. Bà gọi lại thì bên kia đầu dây không nghe tiếng reo của điện thoại. Mấy ngày sau bà lại thấy cũng có nhiều người đi ra khỏi nhà nên bà cũng thử bước ra khỏi nhà để hỏi thăm các người ấy đi đâu thì bà mới vỡ lẽ là kể từ ngày có lệnh “nội bất xuất ngoại bất nhập” vẫn có nhiều người liều mạng đổ xô đến các nhà ga xe lửa, bến xe và sân bay với hy vọng bám được theo chuyến bay, chuyến xe, chuyến tàu cuối cùng để rời khỏi thành phố đáng sợ này trong khi chính quyền ra thêm thông báo rằng, nếu không có giấy phép đặc biệt, không ai được quyền rời khỏi thành phố. Bà Weng chết lặng người khi nhiều người đang chạy trên đường cho bà biết là đang có một thứ bệnh, một con vi trùng gì đó phát xuất từ khu chợ trung tâm Vũ Hán mà người ta gọi là vi rút từ một loài dơi đang được bày bán ở chợ.
Trên các lối ra vào thành phố, giao thông đều bị tắt nghẽn và rồi hệ thống tàu điện ngầm, xe buýt, các sân bay và ga tàu hỏa đều bị đóng cửa. Nhiều trung tâm thương mại lớn cũng không còn mở cửa. Các kệ hàng trong siêu thị trống trơn, nhiều khu chợ địa phương bị người dân vét sạch hàng hóa. Các trạm xăng bị quá tải vì tài xế ùn ùn kéo tới giữa những tin đồn rằng nguồn nhiên liệu dự trữ cạn kiệt, các cửa hàng bán nhu yếu phẩm đã bị cư dân địa phương mua hết những chiếc khẩu trang cuối cùng.
Bà Weng đã lấy lại được sự bình tĩnh sau cả tuần bị bấn loạn tinh thần. Một hôm bà bước ra cửa và gặp một người quen, trước có thời gian dạy học chung với bà cho bà hay là giáo sư Wang Wei, bạn của chồng bà dạy ở đại học công nghệ Vũ Hán tìm cách cách về quê ăn tết ở Suizhou cách Vũ Hán 150 cây số nhưng không thoát được, bị bắt và rồi mất tích cho tới nay…Rất nhiều tin tức do những người ngoài đường thỉnh thoảng nói cho bà biết nhưng bà quan tâm nhất là chồng bà và hai người con đã bặt tin, bây giờ không biết số phận của họ ra sao…
Một buổi sáng chủ nhật bà thức dậy sớm với ý định đi đến nhà thờ để thăm cha xứ mặc dầu bà biết là các buổi lễ đã được hủy bỏ. Khi bà vừa mở cửa ra thì thấy dưới chân bà có một gói hàng. Nhìn kỹ không phải là gói hàng mà một cái giỏ nhỏ đựng thức ăn. Bà thấy có một mẩu giấy viết tay mà bà linh tính biết là của chồng bà. Cầm mẩu giấy lên xem kỹ thì đúng là nét chữ nắn nót của chồng với vỏn vẹn mấy chữ: Anh vẫn khỏe. Có mấy cái bánh bao cho em. Thương nhớ. Dưới có chữ ký của ông Nhậm Chí Cường. Bà xách giỏ bánh bao đem vô nhà, quên cả việc phải ghé đến nhà thờ sáng nay. Bà cầm miếng giấy phủ mấy chiếc bánh bao để qua một bên và thấy năm cái bánh bao, đưa tay đặt nhẹ lên thì bà thấy những chiếc bành bao còn âm ấm. Chắc là mới mua ở tiệm, bà nghĩ thế. Một niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn bà, bà yên lặng đón chào một thứ hạnh phúc đang khắc khoải mong đợi cho bõ những ngày lo âu thương nhớ. Bà lại tự nghĩ, có lẽ vì công việc nhiều nên chồng bà không về nhà được và hơn nữa lại có giới nghiêm, chắc nay mai ông lại về thôi. Bà tự an ủi và thấy vui trong lòng. Chưa cạn niềm vui, bà lại nghe tiếng điện thoại reo. Con của bà từ Thượng Hải gọi về. Chúa đã giúp bà. Tạ ơn Chúa. Bà chỉ kịp làm dấu thánh giá rồi nghe tiếng nói của hai con tranh nhau hỏi thăm sức khỏe của bà, chúng nói chúng vẫn khỏe và vẫn đi học bình thường và dì Weng Ming có nhắn lời thăm bà. Bà chưa kịp nói gì và hỏi thăm các con thì điện thoại đã cúp. Bà gọi lại. Điện thoại bên kia không có tiếng reo…
Bà Weng còn nhớ rõ, hôm bà nhận năm chiếc bánh bao của chồng là ngày cuối cùng của năm âm lịch. Liên tục trong ba ngày bà đều nhận được giỏ thức ăn, bên trong có năm chiếc bánh bao cùng với mẩu giấy có ghi dòng chữ giống như những chữ đã ghi trong mẩu giấy đầu tiên bà nhận được và cũng chữ ký của chồng. Ngày đầu ghi 24 tháng 1 năm 2020, ngày thứ nhì ghi 25 tháng 1 (nhằm ngày tết, mồng một) và ngày cuối là 26 tháng 1.
Cầm những mẩu giấy trong tay như những báu vật cuối cùng bà Weng không khỏi hoang mang lo sợ. Linh tính cho bà biết chắc đang có chuyện gì xảy ra với chồng bà đây…Bà gọi cho hai con để báo tin về chuyện những chiếc bánh bao nhưng không liên lạc được.
Những chiếc bánh bao được cho vào một góc tủ lạnh, bà không đụng tới chúng. Bà sẽ đợi cho đến hôm nào bác sĩ Nhậm Chí Cường cùng hai con trở về, bà mới mang ra, đồng thời sẽ nấu vài món ăn đặc biệt cho cả nhà cùng ăn để chào mừng cái tết muộn cũng không sao. Bà háo hức đợi đến ngày đoàn tụ gia đình…Bà chờ đợi…
Vào khuya ngày 1 tháng 3, khoảng 11 giờ, khi bà đang lần chuỗi hạt và đọc kính Mân Côi thì nghe tiếng gõ cửa. Bà vội vàng chạy ra mở cửa vì bà nghĩ rằng, chồng hoặc con bà về. Cửa vừa mở ra thì có ba người đàn ông trong những bộ đồng phục màu đen đeo mặt nạ lập tức quật hai tay bà ra phía sau, trùm mặt và lôi bà quăng lên phía sau một chiếc xe màu đen đang nổ máy đậu trước cửa. Chiếc xe lao nhanh vào bóng đêm mịt mùng…
Phong Châu
Tháng 3 – 2020
(*) Mặc dầu là người theo đạo Công giáo, một số ít gia đình tại Trung hoa vẫn còn giữ tập tục xưa “cúng ông táo” vào 23 tháng chạp âm lịch.
Mây Bay…

Những áng mây chiều lờ lững trôi
Thênh thang bay mãi tận chân trời      
Có chở tình ta về bên ấy     
Neo vào bến nước cạn dòng trôi

Ngày tháng tha hương gót bềnh bồng    
Trăng tròn trăng khuyết sầu mênh mông                 
Đôi vầng nhật nguyệt ôm thương nhớ  
Đất đá thương nhau cũng nát lòng

Chim biệt xa ngàn nội cỏ phai        
Người xưa năm cũ biết còn ai                 
Chén rượu ly bôi ngày chia biệt      
Ghế đá đom buồn giọt nắng mai

Lá mùa thu đã rụng ven sông                  
Bờ xưa con nước có chạnh lòng   
Phố cũ còn ai qua ngõ vắng       
Đêm buồn như phố thị mùa đông

Người ở nơi nào ta chốn đây                             
Rong rêu trong trí đã phủ đầy               
Nửa giấc chiêm bao dài muôn kiếp                      
Mộng vút lên trời theo áng mây

Người xưa còn nhớ gọi tên nhau        
Trăm năm chưa đến đã bạc đầu            
Lữ khách dừng chân hoài dĩ vãng   
Đường về che khuất lối nương dâu
 
Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay                      
Người đi xa lạc dấu chim bầy                            
Hương lòng xin gửi về quê cũ                              
Dòng lệ vơi đầy chén rượu cay
Phong Châu
Tháng 8 – 25
CON DỐC NHỎ – cs Cẩm Hằng – thơ Phong Châu – phổ nhạc Nguyễn Quyết Thắng
CĂN GÁC NHỎ – thơ Phong Châu – nhạc Nguyễn Quyết Thắng – ca sỹ Minh Đặng