TÂM TRẠNG CỦA NHỮNG TRÍ THỨC, VĂN NGHỆ SĨ “VỀ VƯỜN“ Ở TRONG NƯỚC – Lê Mai Lĩnh

TÂM TRẠNG CỦA NHỮNG TRÍ THỨC, VĂN NGHỆ SĨ “VỀ VƯỜN“ Ở TRONG NƯỚC.

Lê Mai Lĩnh, phóng bút.
October 7, 2025 



I. Màn giáo đầu:
1.Lời mời gọi/  Bài viết có nhiều tài liệu hay, vui, lạ, mới, cho những ai muốn biết, viết, về hiện tình trong nước, buổi thoái trào của chủ nghĩa Cọng sản và những chế độ độc tài toàn thế giới.
Bài viết được cấu trúc, với một hình thức không giống ai, nên, nên cần đảo mắt nhìn, để cảm nhận cái lôi cuốn, hấp dẫn của nó. Xin mời.
 2.Lời tạ lỗi.
Đã lâu, có nhiều lúc, trong các bài viết của tôi, tôi không gọi rõ quý vị là Hèn hay Sợ chết.
Nhưng dưới những dạng ngôn ngữ khác, tôi cũng liệt quý vị, same same: Hèn, Sợ chết.
Bài viết này là một phân trần, sửa sai, thấu hiểu, cũng như là một lời tạ lỗi, gởi tới QUÝ NGÀI.
 3. Lời cảm ơn:
Tôi nảy sinh ý định viết bài ni, là tại vì trên FB, xuất hiện một bản tin, liên quan tới thi sĩ Nguyễn Duy, về tiệm PHỞ XỊN, do cô con dâu đứng bếp, mà thi sĩ là cấp chỉ huy, vừa chiến thuật và chiến lược, có kèm theo hình ảnh các thực khách, mà tôi đoán không sai, là các vị, trong giới cầm bút, chơi trò chơi chữ với nghĩa.
Nếu chỉ chừng đó và ấy, hay ấy và đó, tôi cũng chưa phóng bút, mô nà.
Nhưng mà là, dưới tấm hình đó, ngài triết gia Nguyễn hữu Liêm, có lời còm:
Sau 50 năm, sao nụ cười của quý vị chưa thật sự tươi vui, vẫn còn niềm u uẩn.
Tôi không kịp lưu lại, vì đến giờ rửa chén bát, mà chậm trễ, nữ hoàng tôi cúp tiêu chuẩn. 
Khi có thể, thì bài đã không còn nữa.
Tôi cảm ơn Duy và Liêm, hai người đáng bậc thầy của tôi, cho nguồn hứng thú viết bài ni.
Amen.
II. Thực đơn khai vị.
Trước khi vào nội dung chính, mà tôi gọi là thực đơn chủ lực, gồm:
Mặc cảm phạm tội/ Mặc cảm bất lực/ Nỗi bơ vơ của bầy ngựa già, tôi xin nghiêng minh, kính cẩn, mời chư liệt quý vị nhâm nhi vài món khai vị :
NGUYỄN DUY, thi sĩ.
Cướp.
con ơi mẹ dặn câu này,
cướp đêm là giặc cướp ngày là quan – (ca dao xưa)
.
Cướp xưa băng nhóm làng nhàng,
cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi,
có con dấu đóng đỏ tươi,
có còng, có súng, dùi cui nhà tù,
cướp xưa lén lút tù mù,
cướp nay gióng trống phất cờ phóng loa,
con trời bay lả bay la.
cướp trên bàn giấy, cướp ra cánh đồng.
dân oan tuôn lệ ròng ròng,
mất nhà, mất đất, nát lòng miền quê,
tiếng than vang động bốn bề,
cướp từ thôn xóm tiến về thành đô,
ai qua thành phố Bác Hồ,
mà coi cướp đất, bên bờ Thủ Thiêm.
bây giờ mẹ phải dặn thêm,
quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày.
TRẦN PHƯƠNG, nguyên phó thủ tướng chính phủ Việt cộng.
Chủ nghĩa xã hội được đưa ra, chỉ để bịp thiên hạ.
Chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chủ nghĩa cọng sản là ảo tưởng.
Chúng ta tự lừa dối chúng ta và chúng ta lừa dối người khác.
BÙI MINH QUỐC. Thi sĩ.
 – “ Cái guồng máy nhục mạ con người,
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất,
Trọn tuổi Xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt,
Lại đúc lên cổ máy này.”
DƯƠNG THU HƯƠNG, nhà văn.
“ Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ, vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. 
Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn.
Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. 
Đó là sự hàm hồ và lầm lần của lịch sử”.
NGUYỄN QUANG LẬP, nhà văn.
SÀI GÒN GIẢI PHÓNG TÔI.
Mãi tới ngày 30 tháng 4  năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật.  Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. 
Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. 
Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. 
Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông  hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. 
Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. 
Cuộc đoàn tụ vàng ròng  và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.
 Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. 
Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. 
Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
         Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. 
Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.
         Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. 
Năm 1973  quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. 
Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế.  
Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. 
Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong  Sơn ca số 7. 
Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon.  
Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong  biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. 
Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. 
Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi  bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là  trên cả tuyệt vời. Từ  bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. 
Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên.  
Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. 
Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. 
Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. 
Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải.  
Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có  cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx  của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. 
Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. 
Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. 
Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. 
Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. 
Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
NGUYỄN ĐÌNH CỐNG, giáo sư, tiến sĩ ngành xây dựng.
Khi chưa có chính quyền họ vận động nhân dân đóng góp tài sản, sức lực, xương máu để giúp họ giành cho được chính quyền.
Ngoài mồm họ nói vì độc lập, thống nhất, nhưng sâu xa họ nghĩ đến thống trị trên toàn cõi. Khi đã có vị trí thống trị, họ vẫn nói chính quyền của dân, nhưng trong đầu họ kiên định chính quyền là của Đảng.
Họ tạo ra Quốc hội Đảng cử dân bầu. Họ kiên quyết bảo vệ sự thống trị bằng mọi cách, sẵn sàng kết tội những ai dám phê phán, phản biện việc làm sai trái của chính quyền. Họ trừng phạt người ta bằng việc vu khống những người đó là thế lực thù địch chống chế độ, rồi bắt bỏ tù hoặc đày sang nước khác.
PHAN HUY, thi sĩ, đại tá quân đội nhân dân.
CẢM TẠ MIỀN NAM.
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói,
Với Miền Nam, miền đất nước điêu linh.
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình,
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.
Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”,
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên,
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền,
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc,
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục,
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em,
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền,
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động,
Đất nước, con người, dân chủ tự do.
Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô,
Giận đảng, giận đoàn, bao năm phỉnh gạt.
Sinh ra, lớn lên, sau bức màn sắt,
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”.
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều,
Con người nói năng như là chim vẹt.
.
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng,
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh,
Đuốc soi đường chủ nghĩa mác lê nin.
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản”
.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng,
Xã hội thụt lùi, người kéo thay trâu,
Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu.
Thân phận con người chẳng khác bèo dâu.
.
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối,
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh.
Biết được nhân quyền, tự do, dân chủ,
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
.
Cảm tạ Miền Nam soi đường chỉ lối,
Đưa tôi trở về Tổ Quốc thiêng liêng,
Của Hùng Vương, Quốc Tổ giống Rồng Tiên.
Chớ không phải các mác và lê nin ngoại tộc.
.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai phóng,
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu,
Mà trước đây tôi có biết gì đâu,
Ngoài trung quốc và liên xô đại vĩ.
.
Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ,
Chống lại cộng nô cuồng vọng xâm lăng,
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỉ,
Dù không thành công cũng đã thành nhân.
HÀ SỸ PHU, tiến sĩ, nhà văn.
Đảng CS, như người đi đường dốt nát, không biết dùng bản đồ.
Thỉnh thoảng lại sa xuống hố, lóp ngóp bò lên được thì hô vang chiến thắng.
Cứ thế, Đảng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
TBT là do Tàu duyệt, nên TBT chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, làm tay sai, bán nước cho Tàu.
Điều này đúng từ Hồ chí Minh, không có ngoại lệ.
Ký công hàm tán thành Hoàng Sa/ Trường Sa, là của Tàu, 1958.
NGUYỄN TÝ, nhạc sĩ.
Tôi chưa từng thấy cái chế độ nào mà tồi tệ như chế độ cọng sản VN.
Nó coi con người như cỏ rác.
NGUYỄN KHẢI, nhà văn, đại tá quân đội nhân dân VN.
Cọng sản nói dối lem lẻm, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ, không hề run, sợ.
ĐỖ TRUNG QUÂN, thi sĩ, họa sĩ.
Tạ Lỗi Trường Sơn.
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm,
Các anh từ Bắc vào Nam.
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc.
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục,ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính nguỵ
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hoá lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân uỷ mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập toà án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hoá thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi – của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc.

3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh…

4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?

5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
Để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa.
Này đây!
Xin đổi chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn
NGUYỄN CUNG THƯƠNG, thi sĩ.
GỬI SÚNG CHO TAO.
Sài Gòn – Việt Nam

– Tao cụt một chân, mất một tay
Nhưng còn một tay
Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt.
Nghe nói ở xứ người
Chúng mày “cày” như trâu
Nhưng không quên Đồng Đội
Chia đô la cho chúng tao
Như chia máu ngày nào …
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn:
Phế Binh Việt Cộng
Chúng cũng đui què sứt mẻ như nhau
Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu
Có điều tao không thể hiểu
Bao nhiêu năm qua
Chúng mày cứ mãi đắn đo
Thế giới văn minh đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày có thể hòa hợp được không
Với lũ kên kên, hổ báo?
Những con thú cực kỳ giàu có
Mang “thẻ đỏ, tim đen”
Nợ Nga, sợ Tầu, lạy Mỹ
Với Quan Thầy cúc cung tận tụy
Quay về đàn áp dân đen
Chúng đóng đinh Chúa Jesus lần nữa
Bịt miệng Cha, trói Phật, nhốt Sư, quản lý Chùa
Chúng tao lê lết trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rất rõ từng tên đại ác
Trên bàn tiệc máu xương dân tộc
Nhà hàng nào chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào cũng bị chúng mua trinh
Chúng ta sẽ tỉa từng thằng
Đất nước cần nhiều “quốc táng”
Thịt được mạng thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút sáng láng hơn
Hãy gửi tiền cho những nhà tu
Để họ mở cửa nhà tù
Còn chúng tao là chiến sĩ
Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng một chân sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này sẽ không có Dương Văn Minh.
Trước khi đến phần thực đơn chủ lực, để thấu hiểu thêm hoàn cảnh của những trí thức, văn nghệ sĩ dưới chế độ bạo tàn cọng sản, chúng ta hãy xem trung tướng Trần Độ đã có những nhận xét thế nào, tương quan giữa lãnh đạo và người trí thức, qua bài viết: Một Cái Nhìn Trở Lại.
Ông đã viết : 
tôi thấy rõ cái ý thức giai cấp trong xã hội ta, có những đặc điểm sau:
– Không có khả năng và phương pháp để phân biệt tài năng, vì nó không cần đến tài năng, không muốn có tài năng.
– Không có khả năng và không biết sử dụng tài năng, vì nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng không chịu ngoan ngoãn phục tùng.
– Nó lại càng không có khả năng phân biệt tài năng thật và tài năng giả. Nó thích nghe những điều xuôi chiều và xu nịnh. Nó không thể chịu được những cái độc đáo và không dung tha sự độc lập. 
III. Thực đơn chủ lực.
Mặc cảm phạm tội/ Mặc cảm bất lực/ Nỗi bơ vơ của bầy ngựa già.
Mặc cảm phạm tội.
Nay, cuối đời nhìn lại, thấy cổ máy (chữ của thi sĩ Bùi minh Quốc) tận cùng tàn tệ, mọi mặt xã hội và con người, bị bóc lột qua thuế máu, mà trước đây ông Hồ chí Minh nguyền rủa thực dân Pháp, thì nay, giữa thế kỷ 21, chế độ và đệ tử của ông và từ ông, thu thuế của dân còn tàn bạo gấp nghìn lần hơn chế độ thực dân ngày trước.
Trước thực trạng xã hội như thế,  tôi tin rằng, những trí thức, văn nghệ sĩ “ về vườn”, đang mang mặc cảm phạm tội, rằng một thời thanh xuân, họ đã tiếp tay, tiếp sức, làm nên “cổ máy “phản dân hại nước tới hôm nay, trong vị trí thư ký, trợ lý, cố vấn, cho những tên lãnh đạo gian ác, vô học.
Họ tự biết rằng, với lịch sử, họ cũng không vô tội, với nhân dân, họ cũng đã một thời, bàn tay nhuốm máu anh em, hay một thời, họ đã dự phần làm nên, tiếp tay, cho chế độ hút máu đồng bào, hiện nay.
2.Mặc cảm bất lực.
Từ mặc cảm phạm tội như vừa nói, hẳn có lúc, có người, muốn làm một cái gì đó, để đoái công chuộc tội,  nhưng thấy cũng không thể.
Vì ở trong chăn, nên biết chăn có rận, mà là rận vẹm cọng, họ biết quá đi mà.
Những Hoàng Cầm, Nguyễn hữu Đang, Trần Dần, Thụy An, Phùng Quán….. đã cho họ kinh nghiệm vết sẹo, dấu cắn, từ những con rận hoả lò, Nam sao, Cổng trời, những biệt giam, cùm chân, cụp tiêu chuẩn.
Nên nay, những Hà sỹ Phu, Nguyễn đình Cồng, Nguyễn đình Lộc, Nguyễn Quang A, Chu Hão, Nguyễn minh Thuyết, Hoàng xuân Phú, Nguyễn tương Lai, Huỳnh tấn Mẫm, Lê công Giàu, Mạc văn Trang… không dám hú hé, mô nà.
Họ ở cái thế, Đảng không tin, mà dân thì khinh, dù không nói ra.
Nên gậm nhấm nỗi buồn với khoản tiền hưu còm cõi, giữa các đồng chí biệt thự, xe sang, bồ nhí là ca sĩ, hoa hậu, thơm như mít chín cây, hay mùi sầu riêng, nếu hợp vị và mùi, thì thơm nức Hương Tràm, Mai Phương Thuý, hoa hậu biển, hoa hậu rừng, hoa hậu du lịch, hoa hậu du côn, hoa hậu du kề.
3.Nỗi bơ vơ của bầy ngựa già.
Nếu trước đây, nhà văn Trần Hoài Thư có tập truyện ngắn NỖI BƠ VƠ CỦA BẦY NGỰA HOANG.
Thì nay, nếu có ai viết về họ, tôi đề nghị lấy tên NỖI BƠ VƠ CỦA BẦY NGỰA GIÀ.
Tôi thương họ vô cùng.
Ở trên (Tô Lâm, Phạm minh Chính….) không cho họ đến gần.
Ở dưới (dân ) đuổi họ ra xa, thật xa.
Bơ vơ, tủi thân quá đi chứ.
Họ, trước nỗi bất mãn, bất lực, cũng muốn có sự thay đổi (cách mạng), nhưng cũng sợ sự thay đổi, nên họ không bao giờ mong có cách mạng Nhung, cách mạng màu, Nepal, họ sợ cơn cuồng nộ mang tên nhân dân, những ngày bây giờ, sau Nepal, hỏa thiêu chế độ cọng sản trong 36 giờ, Tô Lâm đang ướt trong quần.
Họ chẳng biết sự thay đổi đó, đem đến cho họ buồn hay vui, hiền hay dữ, là phe ta, hay phía đối nghịch, phía tiếp tục cho họ ôm sỗ hưu, hay phía tước đoạt con đường sống của tuổi già.
Là phía của khoan hồng, hòa hợp hòa giải thật sự, hay là phía gian trá, lọc lừa, miệng mồm, như các đồng chí ta, Đảng ta.
Tâm trạng của họ, không y chang, nhưng cũng tương cận với nhân vật Hồng, trong vở kịch LY NƯỚC LỌC, của thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, đăng trong tạp chí HIỆN ĐẠI, của thi sĩ Nguyên Sa, số 9/ tháng 1.1960.
Không khí kịch, Hà nội sau hiệp định Geneva, 7. 1954, vấn đề ĐI hay Ở, trước làn sóng di cư.
Chuyện kể, trong một cơ quan.
Người con, Thái, muốn đi.
Người mẹ, Hồng, muốn ở.
Thái:
Mẹ phải theo con vào Nam, dù trong đó, không phải là thiên đường, nhưng ít ra ở đó, con có thể gào la giữa phố phường, rằng con yêu mẹ. Cùng lắm, người ta cho con là một kẻ điên, không ai cho con là kẻ phản bội.
Hồng:
Con cứ đi đi, con đi đi.
Mẹ không thể tước bỏ tất cả các Huân chương, để trở thành tên lính trơn trong hàng ngũ mới.
Tâm trạng của Hồng trong LY NƯỚC LỌC, cũng là tâm trạng của các ngài trí thức, văn nghệ sĩ hiện nay trong nước.
Dù gì họ cũng có chút hào quang với Đảng, có cái huân chương 50, 60 năm tuổi Đảng, treo trên tường, nơi phòng khách, nhất là cái sổ hưu, kẹp trong nách.
Nhiều đêm nằm mơ có Nepal Việt Nam, họ lạnh cẳng.
Tôi thương họ, khôn xiết.
IV. Màn vĩ thanh.
Trong vở kịch THÀNH CÁT TƯ HÃN, của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, cũng có MÀN VĨ THANH.
Tôi định copy nguyên văn nội dung của ông, đặt vào đây cho nhẹ gánh văn chương, nhưng không nhớ.
Tôi xin khất lại, coi như tôi còn nợ quý vị, món nợ MÀN VĨ THANH.
Nay mai xuống dưới gặp ông, tôi xin, 
Tôi trả nợ quý vị, cũng không muộn.
Điều sau cùng, tôi xin hứa:
Tôi sẽ tả xung hữu đột, bảo vệ quý vị, nếu có ngày nhân dân nổi cơn cuồng nộ.
Tiếng nói tôi, khuôn mặt tôi, thi sĩ, thiện lành, thiện lành, nhân dân sẽ nghe lời tôi, không đụng vào quý vị đâu, mà sợ. Mô nà.
Amen.
*Quảng điền, Triệu phong, Quảng trị.
Lê Triệu Phong.
1.10.2025.