THÁNH NỮ RẮC MUỐI VÀO THƠ-Lê Mai Lĩnh

Trần thị Cổ Tích,TÁC GIẢ “TRẦM KHÚC MÙA THU”


THÁNH NỮ RẮC MUỐI VÀO THƠ.
Lê mai Lĩnh,
Phóng bút.




Thời gian qua, truyền thông và báo chí trong nước và hải ngoại rầm rập loan tin, về một người đầu bếp Thổ Nhĩ Kỳ, chủ nhân một quán ăn bên ANH, đã rắc muối lên miếng thịt bò dát vàng, phục vụ cho khách hàng với giá 50.000 Mỹ kim, tương đương với 22 tấn lúa …


Riêng tôi chuyện RẮC MUỐI đó chẳng đáng bận tâm. 
Có một thứ RẮC MUỐI KHÁC, cần quan tâm hơn, cần tuyên dương hơn, ngay chính trên quê hương ta, ngay chính trên quê hương xứ Quảng, từ mấy mươi năm nay, mà không ai biết, mà không ai nói tới, đó là RẮC MUỐI VÀO THƠ.


NẾU BÀ HỒ XUÂN HƯƠNG KHÔNG RẮC MUỐI VÀO THƠ , LIỆU BÂY GIỜ CHÚNG TA CÒN NHỚ:
“Thân em như quả mít trên cây,
Da nó xù xì , múi nó dày.
Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng Mân mó nhựa ra tay”
(Qủa Mít)
Hay:
“Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự nghìn xưa,
Chành ra ba góc, da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa”
(Cái Quạt)


Hay như BÀ HUYỆN THANH QUAN, nếu bà không RẮC MUỐI VÀO THƠ, mãi tới nay, chúng ta có còn những dòng châu ngọc:


“ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia,
Dừng chân đứng lại, trời non nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
( QUA ĐÈO NGANG )


Gần chúng ta hơn, thi sĩ QUÁCH THOẠI, nếu  không rắc muối vào thơ, liệu chúng ta còn nhớ:


NHỮNG BUỔI CHIỀU VIỆT NAM.


“ Tôi đã đi trên những buổi chiều,
Những buổi chiều của quá khứ,
Rất cô liêu.
Và mưa gió rất nhiều,
Trên những buổi chiều Việt nam,
Rất thân yêu.
Của ngày nay,
Tôi cũng đang đi đây,
Ôi con đường dài xác xơ,
Lá vàng heo may,
Bóng dáng xanh xao,
Những em bé ăn mày,
Những người anh,
Máu chảy cả đôi tay,
Chiều chiến tranh,
Những mẹ già run sợ,
Vì tiếng súng cối xay,
Đêm sắp tới rồi.
Người ta đang giết nhau quá mê say”


Chưa hết. 
Người rắc muối vào thơ tiếp theo là chàng thi sĩ BA TÊ, THANH TÂM TUYỀN:
“ Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông,
Mà lòng mình thì phơi trên kè đá,
Chiều không xanh, không tím, cũng không vàng,
Những ống khói tàu mệt lả.”


Tiếp theo sau là chàng thi sĩ LUÂN HOÁN, nên chăng gọi chàng là Người Rắc Muối vào mọi ngọn ngành thi ca?
Chàng rắc muối vào ĐĨA THƠ LỤC BÁT, mà chàng hay gọi là thơ 6/8. Chàng rắc muối vào TÔ THẤT NGÔN, đặc biệt là TÔ NGŨ NGÔN, một sở trường của chàng.


Lần nầy, với TRẦM KHÚC MÙA THU, chàng rắc muối vào một NỒI LẨU THẬP CẨM, với vai trò một HẬU VỆ, viết BẠT bằng thơ, mà nhà thơ CAO THOẠI CHÂU, vị trí của một người lính KHINH BINH, viết lời TỰA hay còn gọi là GIỚI THIỆU.


Một ông phía trước, ưỡn ngực ra, một ông phía sau đưa lưng, bảo vệ cho nữ tướng thi sĩ ở giữa, đang điều binh bố trận cho 80 thằng con là 80 bài thơ đủ mọi đề tài, thể loại, hiên ngang chiến đấu, kiên cường xung phong.


Tôi sẽ nói sau tài cầm quân của nữ tướng, mà tôi gọi là THÁNH NỮ RẮC MUỐI VÀO THƠ.


Bây giờ, chúng ta nhâm nhi NỒI LẨU THẬP CẨM của ĐẤNG TÀI HOA XỨ QUẢNG, Luân Hoán.


THAY LỜI BẠT


SÓT MỘT NỤ HỒNG TRÊN ĐẤT THƠ�chưa xưa đã Cổ Tích rồi�dù nhan sắc chẳng thua thời thanh xuân�vâng, tôi đang nhìn chân dung�tự làm thầy bói đoán chừng cho vui.
ngày xưa tôi ghé quê người�mang súng lận bút tới lui xóm làng�núi cao đồi thấp lang thang�bỏ sót nhiều cõi đất vàng chưa qua,
cho dù qua, khó nhận ra�đóa hoa sẽ thở thi ca nuôi đời�nhờ người tôi càng thêm vui�hãnh diện đổ máu giữa trời đất thơ
Quảng Ngãi xưa Quảng Ngãi giờ�tài hoa vẫn đượm ngọt ngào cỏ hoa�những dòng thơ thật thiết tha�mừng cô em gái nâng tà áo hương.
Cổ Tích ngay giữa đời thường�là giá trị khó đo lường ba hoa�kẹo gương đường phổi mạch nha�ngọt thơm hơi thở đậm đà tình thơ.
LUÂN HOÁN
(15.11.2017)


Bây giờ, NGƯỜI RẮC MUỐI VÀO THƠ mà tôi muốn nói lời giới thiệu
là AI, quý vị đọc thơ sẽ biết:


MỘT MÌNH NHỚ LẠI, hồi xưa: 


“ ông kia – nghe rõ đây nè,
từ nay hổng được kè kè theo tui,
ra về thầy bạn đông vui,
lỡ ai ngó thấy tui chui chỗ nào,
lại thêm cái thói tầm phào,
giả đò mượn vở, kẹp vào lá thư,
nắng mưa nhuốm bệnh tương tư,
mắc gì ông kể trong thư vậy cà,
học đâu cái kiểu điệu đà,
ép vào trang vở nhành hoa tím buồn.
hôm nay ngồi ngắm mưa tuôn,
sao lòng cũng … thấy buồn buồn vậy ta.
thôi nghen – tui nói thiệt à,
từ nay chớ có rà rà theo tui

nhưng này…nếu … muốn tui vui,
hiên nhà xin đặt… một gùi … ổi thơm.
( hay me cốc xoài gì … cũng được )
                                Trần Thị Cổ Tích.


Đây là một bài thơ tình TRẺ CON RẤT NGƯỜI LỚN.
Một bài lục bát ĐẸP mút chỉ.


Vừa răn đe, vừa chiêu dụ, vừa khép lại trái tim, vừa mở lòng đón mời, vừa vỗ về vừa trách móc, trêu tức, ỡm ờ. 
Không nói với nhau bằng ngôn ngữ mà bằng cử chỉ, bằng nụ cười, khoé mắt gởi trao.
Một bài thơ tình đỉnh của thơ tình .


Ai cũng thấy mình trong đó. 
Của hoài niệm tuổi thơ và tình ái học trò. 
Là một bài thơ tình không có tuổi.


Và vì sao tôi gọi NÀNG là THÁNH NỮ RẮC MUỐI VÀO THƠ?
Vì rằng thì là, để tiến tới thời kỳ nầy, THÁNH NỮ, NÀNG đã trải qua hơn 50 năm tu khổ hạnh với tôn giáo là THI CA hay còn gọi là THI ĐẠO.


Năm 17 tuổi, niên học 1971- 1972, lớp 11C, cô học trò TRẦN THỊ TRẦM (TTCT) cuỗm một chiến lợi phẩm, dành cho GIẢI NHẤT MÔN VĂN TOÀN TỈNH QUẢNG NGÃI, giải thưởng gồm những tác phẩm văn học nổi tiếng Việt Nam và thế giới.


1/ CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH, gồm 4 cuốn, bản dịch của học giả NGUYỄN HIẾN LÊ.
2/ THI NHÂN VIỆT NAM của HOÀI THANH và HOÀI CHÂN.
3/ Tự điển TẦM NGUYÊN của tác giả BỬU KẾ.
4/ CÂU CHUYỆN TRIẾT HỌC, Phùng Thăng dịch.
Và nhiều cuốn khác mà NÀNG không nhớ hết khi kể lại trên FB.


Trước TRẦM KHÚC MÙA THU, tác phẩm NÀNG “chơi ” một mình, NÀNG đã có mặt với nhiều trò chơi tập thể khác:
1/ VỀ NGUỒN – nxb Văn học,  2010.
2/ MỘT NGÀN nhà thơ HUẾ (tập 3) – nxb Thuận Hoá, 2010.
3/ TRÀ GIANG THƯƠNG NHỚ –  nxb Hội Nhà Văn, 2014.
4/ 100 NĂM BÍCH KHÊ – nxb Hội Nhà Văn, 2016.
5/ TÂN HIỆP THƠ – nxb Đồng Nai, 2015.
6/ HƯƠNG XƯA GỞI LẠI – nxb  Hội Nhà Văn, 2015.
7/ LẮNG ĐỌNG THANH XUÂN – nxb Hội Nhà Văn, 2020.
8/ THƠ VIỆT ĐẦU THẾ KỶ 21 – nxb Nhân Ảnh (Hoa Kỳ), 2018.
Và nhiều bài viết đơn lẻ, cọng tác với các tạp chí, trang mạng trong nước và hải ngoại.


Từ một cô nữ sinh 17 tuổi năm 1971, 50 năm sau, tài sản của cô là một biển trời chữ nghĩa. 
Với ngần ấy tác phẩm, lai láng nguồn thơ, sung mãn nhiệt tâm, một lòng đau đáu với văn chương, không ngừng nghỉ, không kịp thở, đuổi bắt nguồn thi hứng thường trực trong đêm, miệt mài giữa ngày, giữa bao nỗi lo toan, nhưng không sáng tác dồn dập mà chỉ nhả tơ khi cảm hứng đủ chín để viết thành thơ.


Thi sĩ theo học ban Anh Văn, trường đại học sư phạm Huế, chưa kịp xong khóa học 4 năm thì phải từ giã trường vào năm 1975, sau khi hết năm thứ hai, vì hoàn cảnh gia đình…


Về Quảng Ngãi, NÀNG là cô giáo dạy tiếng Anh, từng chuyển ngữ một số truyện ngắn văn chương Anh sang văn chương Việt.


Mọi người nghĩ sao, đánh giá thế nào, tôi không biết. 
Nhưng riêng tôi, tôi bái phục nhà thơ, một trí thức vẹn toàn.


Như thế đã đủ bảo chứng giá trị “tới luôn bác tài” chưa, cho một TRẦM KHÚC MÙA THU, tượng đài kiêu hãnh, ngạo nghễ giữa cõi đời và người trăm nỗi buốt nhói, nhiêu khê?
TRẦM KHÚC MÙA THU, là khúc ca, khúc hát mùa thu, của một thiếu phụ tên TRẦM, TRẦN THỊ TRẦM.


Hay khúc nhạc mùa thu trời chiều quyến rũ, giữa thinh không bao la bát ngát, của mùi hương TRẦM, QUẾ phảng phất Hương Phật Đà thắp sáng đêm đêm?


TRẦM KHÚC MÙA THU hay khúc nhạc trầm trầm, nghĩa là không bay bổng, mà là thầm thì lời nỉ non, tình tự của lứa đôi?


Thực sự, TRẦM KHÚC MÙA THU (TKMT) là gì? 
TKMT là một tác phẩm văn học, còn được gọi là một tập thơ, còn được gọi là đứa con tinh thần của người thai nghén, mang nặng đẻ đau.
Với độc giả, nó là món ăn tinh thần.
Mà, gọi nó là món ăn tinh thần, cũng có thể gọi là mồi. 
Cũng có thể gọi TKMT là một bàn nhậu hay mâm cổ văn chương.
Tôi cũng nói rằng, những ai không tham dự mâm cổ nầy là một thiệt thòi lớn.
Tôi cũng nói rằng, những ai đến với mâm cổ nầy mà vội vàng ra đi, hay rời bàn nhậu sớm, tôi gọi họ là những kẻ phá mồi.


Hãy ngồi vào bàn nhậu, thật lâu, phải nhâm nhi, phải ngấu nghiến, đừng vội nuốt, mới thấy được, mới cảm nhận được, ngoài vị mặn của muối, mà THÁNH NỮ rắc vào thơ, còn có vị cay đậm đà của hạt tiêu, khác xa cái cay tàn bạo, côn đồ của trái ớt chìa vôi hay ớt hiểm chỉ thiên, tàn canh gió lộng.
Muối, tiêu, còn thêm hành tỏi, tương chao xì dầu, thấm vào đĩa Lục bát , tô Tám chữ, vịm Ngũ ngôn và đừng quên nồi lẩu thập cẩm của ông vua lục bát LUÂN HOÁN, người lính vị trí hậu vệ, mà khinh binh là anh cả CAO THOẠI CHÂU trên trận địa quê nhà của nữ sĩ.


TRẦM KHÚC MÙA THU gồm 80 bài thơ nhiều thể loại , đan trải qua nhiều đề tài, nhiều cung bậc tình cảm, tình thơ ngút trời sương khói.


Nơi đó có tình nhà, tình nước, tình quê cùng tình bè bạn, không thiếu vắng một nhan sắc nào, một bóng dáng nào.
Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy rằng và chắc chắn tôi nói đúng.
Đọc thơ của cô TRẦM, chị TRẦM, bà TRẦM hay TRẦN THỊ CỔ TÍCH , trong TKMT một hai lần không thấy hay, nó đang nằm ngoài da, ngoài tai… Nhưng đọc nhiều lần, như tôi, hơn 10 lần, tôi mới thấy hay, thấy ngấm, tiếng thơ, hồn thơ mới len vào tâm hồn, trái tim người thưởng thức.


Nghe tôi, bạn làm như vậy đi. 
Thú vị lắm. 
Đã vô cùng…
Hãy nghe tác giả bày tỏ kinh nghiệm một lần hôn nhau, bạn sẽ thấy đã ôi là đã, với nụ hôn đầu đời thiếu nữ :


KHI TA HÔN NHAU
em kiểng chân lên/ háo hức đón từ anh/ nụ hôn mùi thuốc lá/
lửa trời hừng hực/ em ngún dần ngún dần/ cháy đến tận cùng trên môi anh/
khi anh hôn em/ nụ hôn mùi rượu chát/ hương xuân tràn căng ngực/ nồng nàn bứt rứt/ tim em lảo đảo say mèm/
khi ta hôn nhau/ nụ hôn mùi thuốc phiện/ anh dật dờ trong cơn nghiện/ quằn quại nỗi nhớ mộng du/
khi ta hôn nhau/ nụ hôn từ tạ/
đất hỏi trời mưa sao mắt em ướt thế,
mây hỏi gió rừng sao cỏ úa trên mi anh.
cây hỏi cây sao tiếng hót ban chiều bay mất,
người hỏi người/ sao lòng quá chật/ 
ta hỏi mình/ tình nào không chênh vênh”


Đẹp như thế, thơ hay như thế, lãng mạn hơi bị nhiều như thế…
Thơ tình của NÀNG nhất nhất vô phương chuyển tải.


BẮT ĐẦU.
đã bắt đầu đêm nghĩ về nhau,
phương xa dòng nước có xanh màu,
thuyền qua từng nhánh sông lấp lửng,
có nhánh riêng nào cho mai sau.
 
đã bắt đầu mơ, bắt đầu mơ,
nửa khuya trăng thả một giòng thơ,
à ơi ve vuốt hoài thân sóng,
sóng rung, sóng động, sóng vỡ bờ.
 
đã bắt đầu nhớ một người thôi,
nghe chừng hơi thở đốt bờ môi,
nghe chừng hương ấm luồn da thịt,
gió xoắn về đâu gió rã rời.
 
đã bắt đầu quên bẵng nỗi buồn,
náo nức lưng trời thánh thót chuông,
ngày lên trổi tiếng kinh cầu ấy,
lộng lẫy trong lòng một tiếng… thương
 
Đọc thơ tình của TRẦM, TRẦN THỊ CỔ TÍCH.
Khỏe re. 
NÀNG thật thà khai báo hết. 
Ta chỉ biết đọc, nghe, thưởng thức, vui sướng với cái hạnh phúc của NÀNG.
Đọc, nghe, ngắm, vui, sướng.
Cảm ơn NÀNG.
 
CÓ THỂ LÀ NHƯ THẾ.
có thể đến một lúc nào đó/ cũng có thể ngay phút giây này/ 
ta không còn yêu nhau nữa/
em vẫn yêu/ tình – của – chúng – ta/
yêu những lá thư/ những câu thơ/ những nụ hôn/ tuôn trào dung nham hừng hực/
từ núi lửa yêu thương/ từ nỗi lòng ủ kín/
 mười năm bươn bả ngược dòng/ vội vã yêu/
cuống quýt nâng niu tháng ngày lạc mất/
mười năm/ thơ là máu nuôi tình/
sông núi mịt mờ gửi nỗi nhớ nuôi nhau/
mười năm/ nước mắt ngâm biển mặn/ trái đắng nuốt trong lòng/
chưa muối nổi tình sâu…/
dẫu thế nào/ vẫn mãi là em/ người canh giữ ngôi đền nhỏ/ xây bằng những câu thơ/ riêng cho một chuyện tình.


Đọc thơ tình của TRẦM, TRẦN THỊ, tôi chợt nhớ tới bài hát mà tôi chỉ nhớ một câu. 
Nhưng không sao, Thơ TRẦM giúp tôi đỡ nhớ.


“ ANH YÊU EM 
ANH YÊU EM
NHƯ RỪNG YÊU THÚ DỮ”


Cảm ơn NÀNG, tình cũng mãnh liệt không kém:
“NHỮNG NỤ HÔN
TUÔN TRÀO DUNG NHAM HỪNG HỰC
TỪ NÚI LỬA YÊU THƯƠNG
TỪ NỖI LÒNG Ủ KÍN “
 
” MƯỜI NĂM, 
THƠ LÀ MÁU NUÔI TÌNH,
SÔNG NÚI MỊT MỜ GỬI NỖI NHỚ NUÔI NHAU.
MƯỜI NĂM, 
NƯỚC MẮT NGÂM BIỂN MẶN,
TRÁI ĐẮNG NUỐT TRONG LÒNG,
CHƯA MUỐI NỔI TÌNH SÂU “
 
Những câu thơ hay khủng khiếp. 
Đọc, mà lạnh xương sống.
Sướng ơi là sướng!
Cảm ơn NÀNG, 
TRẦM, TRẦN THỊ…
 
Xin thưa quý Thượng đế,
Độc giả là Thượng đế,
THƠ TÌNH CỦA BÀ ẤY LÀM TÔI ẤM ĐẦU
TÔI MUỐN SỐT.


Bài thơ sau đây sẽ làm chúng ta HẠ HỎA, nếu như quý vị cũng cao máu như tôi!


Đã đến lúc chấm dứt thôi.
Chứ thơ bà ấy hay như thế!
Thơ tình như thuốc phiện, bạch phiến…
Đọc, đọc và đọc…
Ai mà chịu thấu.
 
Bài thơ sau, như liều dược thảo, giải tỏa nguồn cơn:


NGÀY TÔI VỀ QUẢNG NGÃI CÓ VUI KHÔNG?
 
tôi đã về,
Quảng Ngãi có vui không,
nắng sân ga run run màu hạnh ngộ,
sợi tóc mềm ngân nga lời ca nhỏ,
vỗ về tôi bao con sóng dịu dàng.
 
ngày tôi về Quảng Ngãi có vui không?
tách cà phê gợi hương mùa xanh cũ,
gió sông Trà thổi tung niềm xa xứ,
đời phong ba nay tìm lại quê nhà.
 
đón tôi về Quảng Ngãi có vui không? 
khuya biển thức kể chuyện đời giông bão,
mắt người sâu mà nỗi sầu chưa cạn,
lời riêng chung, chén rượu cháy môi cười.
 
buồn hay vui cũng xin cùng ngồi lại,
quá nửa dốc đời, mấy nẻo phù vân,
tôi trở về, ấm tình quê tình bạn,
gọi bao lần,
Quảng Ngãi dấu yêu ơi…
 
Đọc thơ tình của TRẦM, ta đã “hot”, lên cơn sốt, đôi lúc và có khi nóng đầu và chóng mặt . 


Đọc NGÀY TÔI VỀ QUẢNG NGẢI CÓ VUI KHÔNG, thân yêu, dịu dàng, sực nức mùi quê hương, sông nước, cỏ cây hoa lá miền thôn dã. 


Lòng ta đã lặng thầm, lâng lâng hồn nước tình quê.
Vậy, tiếp tục chơi tiếp, chạy, bay, nhảy vào vườn thơ 4 chữ của TRẦM, như một sở trường của NÀNG, mang nét THIỀN và TRÍ TUỆ rất đỗi sáng ngời, của một dáng dấp đạo hạnh.


TRÊN CÁNH MÂY TRÔI.
tôi dành cho tôi,
một ngày tĩnh lặng,
ngồi vẽ đời mình,
trên cánh mây trôi.
 
mây suốt đời bay,
qua rừng qua núi,
ngất ngưỡng phiêu bồng,
một cõi mênh mông.
 
tôi dành cho tôi,
trọn lời yêu dấu,
chôn hết u sầu,
vào chốn hư không.
 
đời vui theo nắng,
lên đồi thông ngàn,
bỏ quên cay đắng,
bỏ quên phũ phàng.
 
tôi dành cho tôi,
một đóa sen ngời,
nở từ muôn kiếp
trên môi Phật về.
Trần Thị Cổ Tích
10.11.2021
nối tiếp bài thơ TÔI DÀNH CHO TÔI.


TÔI DÀNH CHO TÔI.
tôi dành cho tôi�một ngày tĩnh lặng�ngồi xếp đời mình�trong chiếc lá khô.
lá đã từng xanh�hết mình xanh ngát�lá đã từng vàng�ngây ngất thu sang.
 
tôi dành cho tôi�bộn bề nhang khói�ngơ ngác nỗi buồn�biệt dấu trăm năm.
 
mùa đi thao thức�chôn lời ước thề�chuyện tình đau nhức�mù không nẻo về.
 
tôi dành cho tôi�một đóa hoa ngời �nở từ muôn kiếp�trên môi một người.
( 1918 )


THƠ TÌNH CỦA TRẦM NHỨC NHỐI QUÁ, BỎ ĐI KHÔNG ĐÀNH.
CÙNG NHAU CHÚNG TA ” NHÂM NHI ”  MỘT BÀI NỮA THÔI NHÉ .
 
TRẦM KHÚC MÙA THU.
dẫu chỉ một phần trăm hy vọng,
anh vẫn gửi em lời tỏ tình mạo hiểm,
không hề gạn lọc chuốt trau ngôn từ đẹp đẽ,
xây xẩm quay cuồng anh bối rối lời thơ.
 
làm sao đây,
khi em đã ném đi chiếc chìa khóa mùa xuân,
trong một ngày trái tim không còn nguyên vẹn.
những mảnh vỡ niềm tin băm nát linh hồn.
 
trả lời thế nào đây,
bóng tối thời gian dần khép,
ta còn gì cho nhau ngoài xưa cũ não nề,
hai mảnh đời chập chờn màu hư ảo,
chữ yêu thương sao có thể nguyên lành.
 
đừng trách chi lời chối từ nghiệt ngã,
đã dừng lại trong em từ lâu những nốt nhạc tình,
ở xa kia anh núi cao chơ vơ chiều sương khói,
xin cúi chào người,
muộn mất rồi,
em bóng nhỏ đường mưa.
(2019)
 
Nhà thơ là một người con của Huế, sinh ra và lớn lên ở Quảng Ngãi.
Nỗi nhớ thương HUẾ đau đáu trong lòng.
Đây là một bài thơ NÀNG làm cho HUẾ ngày trở về quê xưa chốn cũ.
 
VỀ HUẾ
bước rón rén kẻo giật mình trưa Huế, 
tôi trở về tìm trong-vắt-nụ-thời- gian.
hoàng thành xưa xốn xang màu rêu nhớ,
sông Hương ngừng trôi sững một câu hò.
 
tôi vén từng con sóng tìm em,
tìm bóng dáng bạn bè,
tìm giấc mơ giấu trong lòng Huế,
thuở lá non tơ cứ tưởng đã xanh cành.
 
em bỏ Huế đi đâu,
để bao năm qua những con đường quên ngủ,
hoa bâng khuâng ray rứt tím trên đồi,
nhịp Trường Tiền nửa vòng cong lơ lửng,
Túy Vân bạc đầu khản giọng gọi mùa xanh.
 
siết tay Huế,
siết tay những ngọt ngào rất Huế,
phút yên bình,
tôi cười khóc với… tôi xưa…
 
TRẦM, TRẦN THỊ, là một cô gái HUẾ. 
Rất đẹp. 
Những điều khác, tôi đã nói hay không can đảm nói.
Nàng đẹp, đến nỗi, có một ông nhà thơ nọ, ngoài thất tuần, thấy chân dung nhan sắc NÀNG, cầm lòng không đậu, cũng phóng bút bốn câu thơ tội nghiệp biết mấy, thượng đế ơi.
 
” NGƯỜI ĐẸP , THƠ HA,
NHÌN, ĐỌC ĐỀU SAY,
ĐÚNG LÀ Ủ RƯỢU,
MEN THI TUYẾT THAY “
Cao thoại Châu.


Để chấm dứt bài viết nầy, dù lòng tôi chưa muốn, tôi xin kể một giai thoại văn chương, không biết gọi giai thoại văn chương có đúng không, LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI ĐÀN BÀ HUẾ.


Chuyện kể rằng thì là :
Trong một cuộc rượu giữa những nhà văn, nhà thơ gốc Hà nội tại Sài Gòn vào giữa thập niên 60, không biết câu chuyện rượu chè dẫn dắt thế nào, nhà văn TRẦN PHONG GIAO phán một câu xanh rờn:


VỚI ĐÀN BÀ HUẾ, CHỈ NÊN LÀM TÌNH NHÂN, ĐỪNG NGU LẤY LÀM VỢ.


Câu nói nầy tới tai bà NHÃ CA, TRẦN THU VÂN.
Bà giận tím gan, dầm mật. 
Kẹt một nỗi, là lúc đó bà đang cặp bồ với thi sĩ TRẦN DẠ TỪ.
Lẽ nào vì mày, mà tao mất chồng.


Thế là bà vận động, kéo lôi, thầm thì, chiêu dụ hai bà nhà văn Túy Hồng, Nguyễn thị Hoàng , cùng gốc Huế , lập tổ TAM TAM, HỢP ĐỒNG TÁC CHIẾN, BA MŨI GIÁP CÔNG, TIỀN PHÁO HẬU XUNG.
Trợ lực cho ba bà, có thêm hai ông Bắc kỳ 54 NẰM VÙNG, MAI PHỤC, ĐỘN THỔ là nhà thơ TRẦN DẠ TỪ, đang ghẹo bà Nhà Ca, nhà văn THANH NAM đang đá lông nheo bà Tuý Hồng.
Kết thúc trận địa, nhà văn Trần phong Giao phải xin lỗi công khai trên báo chí, trong một tiệc rượu sau đó mà TPG phải chung chi khá đậm.
Chuyện này văn giới trước 1975, râm ran.
Có chi mô, hè.


Lê mai Lĩnh/ tự khùng thi sĩ.