TRẦN QUỐC BẢO

Tiểu sử: Trần Quốc Bảo là tên thật và bút hiệu
– 25 năm phục vụ trong Quân đội / QLVNCH. –(qua các Đơn Vị: Tiểu Đoàn 7 KB/Đệ II QK; Biệt Phái Bộ Nôi Vụ; BCH/Công Binh; Sư Đoàn 22 BB;  Nha Tồng Thanh Tra QLVNCH)
– Được ân thưởng Bảo-Quốc Huân Chương – Đệ Ngũ Đẳng – (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký ngày 29/4/1974)
– Phụ tá Giám Đốc Đài Phát thanh Huế (1955-1957)
– Chủ biên Nguyệt san Công Binh (BCH/CB. QLVNCH – 1957-1959)
– Sáng lập & điều hành Bút-Việt Văn Đoàn
– Chủ biên Tạp chí Văn Học Cỏ Thơm (Washington DC 2004-2008)
– Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Vịệt Nam, Richmond,Virginia (1996-2001)
– Cố Vấn Hội Đồng GX.CTTĐVN . Richmond.Virginia (2002-2016)
– Sáng lập & điều hành Hội Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong
– Chủ biên Đặc San Xuân Hy Vọng Richmond, VA (2009-2012)
– Chủ tịch Hội Văn nghệ sĩ Việt Nam Tự do/MĐHK (1989-1997)
– Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại/ MĐHK (2003-2007)
Tác phẩm:
1. Cuộc Di Cư Vĩ Đại Trong Lịch Sử Thế Giới Cận Kim (1956)
2.3. Thơ Quốc Bảo – tập 1 & tập 2 – (1967 – 1973)
4. Công Chúa Thủy Tiên – Truyện Nhi đồng (1970)
5. Đối Diện Niềm Vui – Thơ (1998)
6. Tuyển Tập Thơ Văn (2016)
7. Một Thời Mộng Hoa – Sách Nhạc phổ Thơ (2018)
8. Hàn Thi Đường Thi Tuyển Dịch (2019)
9. Quê Hương – Thơ (2020)
Hiện cư ngụ: Thành phố Richmond, Tiểu bang Virginia. Hoa Kỳ
Kính thưa Qúi Thân Hữu,
Hiện nay Hệ thống Amazon phát hành sách báo toàn cầu đã phát hành Thi tập “CÕI TẠM” của nhà thơ Trần Quốc Bảo 
Qúi vị ở tại Hoa Kỳ hoặc ở bất cứ Quốc gia nào khác, nếu muốn có sách “CÕI TẠM”, xin vào đường link sau đây để order sách rất dễ dàng.
 
https://www.amazon.com/C%C3%B5i-T%E1%BA%A1m-Bao-Tran/dp/1257748726/ref=sr_1_2?crid=AVRCZQ4V9GDO&dib=eyJ2IjoiMSJ9.vcYOVlGP1htkwZqpoG__g743hkh01la48ZgXGfgHV19QyNLKGmTaX2M8-INmkO-r4AkmE2Zy7C6ynt9RtUPyz0UYgXICa45mylokIbdvOmTfxMnKp3TqmjVWN-mZU4CXYxo_7kDRqig4HTgGUJ7zjgjRVMqhS8MGpuu1FmcrVdRA6IGojQUBnJcndaBwA69SGSIbQhapBNsK6ToT8AD4PzWR_jVw6U5YP3nuwLnxBOyVsrdcjLCVQo3f_sSXhTTy1SkUwfxQ5fctHnif_vJan6k3OZRJeVfRA7Z6vbikXDY.csjYt5qIhPaCZbQmPr-o4AcCbuc2vH_TzUspLu2uPlo&dib_tag=se&keywords=Tran+quoc+bao&qid=1762378071&sprefix=tran+quoc+bao%2Caps%2C183&sr=8-2
 

Kính thưa Qúi Thân Hữu,
Hiện nay Hệ thống Amazon phát hành sách báo toàn cầu đã phát hành Thi tập “CÕI TẠM” của nhà thơ Trần Quốc Bảo 
Qúi vị ở tại Hoa Kỳ hoặc ở bất cứ Quốc gia nào khác, nếu muốn có sách “CÕI TẠM”, xin vào đường link sau đây để order sách rất dễ dàng.
 
https://www.amazon.com/C%C3%B5i-T%E1%BA%A1m-Bao-Tran/dp/1257748726/ref=sr_1_2?crid=AVRCZQ4V9GDO&dib=eyJ2IjoiMSJ9.vcYOVlGP1htkwZqpoG__g743hkh01la48ZgXGfgHV19QyNLKGmTaX2M8-INmkO-r4AkmE2Zy7C6ynt9RtUPyz0UYgXICa45mylokIbdvOmTfxMnKp3TqmjVWN-mZU4CXYxo_7kDRqig4HTgGUJ7zjgjRVMqhS8MGpuu1FmcrVdRA6IGojQUBnJcndaBwA69SGSIbQhapBNsK6ToT8AD4PzWR_jVw6U5YP3nuwLnxBOyVsrdcjLCVQo3f_sSXhTTy1SkUwfxQ5fctHnif_vJan6k3OZRJeVfRA7Z6vbikXDY.csjYt5qIhPaCZbQmPr-o4AcCbuc2vH_TzUspLu2uPlo&dib_tag=se&keywords=Tran+quoc+bao&qid=1762378071&sprefix=tran+quoc+bao%2Caps%2C183&sr=8-2
    Giới thiệu thi tập Cõi Tạm 
     của thi sĩ Trần Quốc Bảo

Trong dòng chảy thơ Việt lưu lạc, Cõi Tạm của thi sĩ lão thành Trần Quốc Bảo là một tiếng nói trầm tĩnh, đầy chiêm nghiệm của người đã đi gần trọn kiếp người giữa hai bờ quê hương;  nơi đã mất và nơi tạm dung.
Với giọng thơ dung dị mà sâu lắng, Trần Quốc Bảo không tô vẽ nỗi buồn tha hương bằng bi lụy, mà bằng lòng biết ơn. 
                Tạ Ơn Cõi Tạm 
         Dù đời, một cuộc nổi trôi, 
  Tạ ơn Cõi Tạm: Quê tôi, Quê người. 
Câu thơ như lời khấn nguyện, là điểm tựa tinh thần cho người Việt xa xứ vẫn giữ được nụ cười trong khổ nạn, và trái tim trong ấm áp tự do.
Những vần thơ của ông không chỉ là lời tạ ơn đời, mà còn là lời nhắc về nhân duyên tồn tại: rằng ngay cả trong “cõi tạm”, con người vẫn có thể tìm thấy quê hương trong lòng nhân ái và tri ân.

Như một món quà tinh thần gửi đến những tâm hồn Việt xa quê.  Những người vẫn một đời “tạ ơn cõi tạm”, dẫu biết rằng, quê thật của chúng ta, đôi khi chỉ là một nỗi nhớ không nguôi. 
               Trân trọng
            Y Thy Võ Phú
Chín Lăm Tuổi Thọ
Chín lăm tuổi thọ, tạ ơn Trời, (*)
Nhìn lại hành trình, những nổi trôi.
Súng gãy ôm hoài niềm Quốc hận!
Bút cùn viết mãi chuyện dân Hời!
Trăm năm bận bịu tình nhân thế,
Một kiếp đa mang gánh nợ đời!
Ấp ủ bình sinh, tâm nhất nguyện…
Quốc Kỳ vàng rực khắp quê tôi!
 
             Trần Quốc Bảo
(*)  Ngày 1/1/2025, kỷ niệm sinh nhật thứ 95 của TQB.
NGÀY QUỐC HẬN
30 Tháng 4 – Xóa bàn cờ tướng
Thí chốt, phủi tay … Thế là hết chơi!
Đại Sứ Martin hạ cờ Mỹ xuống
Trực thăng Cobra bốc thẳng ra khơi!
30 Tháng 4 – Miền Nam thất thủ
Quân Lực Việt Nam tan rã đau thương
Máu lệ quân dân đẫm đầy trang sử
Quốc Hận này đau thấm tận tủy xương!
30 Tháng 4 – Cờ máu xuất hiện
Nón cối dép râu, kéo vào Sài-gòn
Dân chúng ùn ùn trốn chạy ra biền
Đi tìm Tự do. Xa lũ ác ôn !
30 Tháng 4 – Hải Quân bất mãn
Tài liệu Tham mưu thiêu hủy sạch trơn
Toàn Bộ Tư Lệnh âm thầm di tản
Chiến hạm, Giang đoàn … trực chỉ Côn Sơn.
3 –
30 Tháng 4 – Vùng 4 còn vững
Mười rưỡi nghe tin, Minh-Cồ đầu hàng
Như ngọn giáo đâm ngay tim!… chết sững!
Một tiếng súng “!”. Trời! – Tướng Nguyễn Khoa Nam !
30 Tháng 4 – buông súng… phi lý!
Sư Đoàn 5 , phòng tuyến vẫn y nguyên
Tư Lệnh Sư Đoàn – Tướng Lê Nguyên Vỹ
Chào biệt anh em. Tuẫn tiết oai nghiêm!
30 Tháng 4 – Đoàn quân thất thủ
Đang khi chiến binh, khí tiết bừng bừng!
“Vị Quốc Vong Thân” : – Tướng Phạm Văn Phú
Tướng Trần Văn Hai, – Tướng Lê Văn Hưng
30 Tháng 4 – Người không tự vận
Tỉnh Trưởng Chương Thiện chiến đấu tới cùng
Vị “Liệt Sĩ” : Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Giặc đem ra bắn! Ông chết bi hùng!
30 Tháng 4 –Rã ngũ gần hết
Còn lại Vũng Tầu, Trường Thiếu sinh Quân
Vẫn kềm chặt súng, coi thường cái chết
Rốt cuộc, các em ngồi khóc giữa sân !!!
30 Tháng 4 – Hai tay hai súng
Anh lính hiên ngang đi giữa Sài-gòn
Trái lựu đạn móc tòn ten trước bụng
“Mẹ đời! Cộng phỉ !… cùng chết nghe con”!
30 Tháng 4 – Cộng nô tàn bạo
Qủy quyệt, gian manh, vào cướp Miền Nam
Ngục tù khổ sai, gọi là “cải tạo”
“Vùng kinh tế mới”đầy ải lầm than!
30 Tháng 4 – Hận đau khôn xiết!
Hơn bốn chục năm … núi sông u sầu
Cương quyết vùng lên! Toàn dân nước Việt!
Giữ Giang Sơn cho con cháu ngàn sau!
30 Tháng 4 – Ước mong chờ đợi !
Hồn thiêng sông núi “Việt Nam Cộng Hoà”
Cờ Vàng uy linh, bay khắp Thế giới
Sẽ về Quê hương ! Một ngày không xa!
Trần Quốc Bảo
Bài Thơ Trên Cát
Trải hồn thơ trên cát
Con nước dềnh lên sẽ cuốn trôi đi
Là ký thác vào trùng dương bát ngát
Nợ tang bồng hồ thỉ nam nhi
Góc biển chân trời gót mòn phiêu dạt
Mộng lớn mai chiều thoáng đã vô vi
Xưa Hạng Võ thế cùng vận mạt
Trừng mắt nhìn giặc cướp biên thùy
Đặng Dung mài gươm trên nỗi buồn bi đát
Bạc mái đầu khi Tổ Quốc lâm nguy
Cũng một ưu phiền, một trái tim tan nát
Thuở trước bây giờ nào có khác chi
Gửi tâm sự vào vần thơ điệu hát
Hoài cung tơ vẫn bặt dáng Chung Kỳ
Thì nghêu ngao với trăng thanh gió mát “
Nhất trạo giang sơn tận địa duy” () ()-
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhất trạo giang sơn tận địa duy(Thơ: HoàngSào) –
Nửa vai cung kiếm trời cho đó
Khắp nẻo non sông một mái chèo (TQTháidịch)
Trần Quốc Bảo
Đối Diện Niềm Vui
Ngày 4 tháng 7
Tại Hoa Thịnh Đốn
Có người con gái tóc bạch kim,
Tung tăng trên đường nhảy nhót chân chim
Nàng đi trước rừng cờ sặc sỡ
Nắng tô hồng rực rỡ má hây hây
Ngọn gió đùa thổi cánh áo tung bay
Áo và váy cũng mầu cờ sặc sỡ
Rất hồn nhiên
Miệng cười rạng rỡ
Vươn cao lồng ngực thiên thần
Bàn tay ngọc quay tròn cây súng nhựa
Gót chân son theo nhịp bước quân hành
Kèn trống vang lừng
12 –
Kỷ niệm ngày Hoa Kỳ độc lập
Nỗi hân hoan tràn ngập Thủ đô
Phố xá người đi như nước vỡ bờ
Trai gái ôm nhau khiêu vũ
Mấy cụ già mừng rỡ vỗ tay ca
Embé da đen phe phảy lá cờ hoa
Toe toét cười rất tươi trong nắng
. . . Người con gái tóc bạch kim
Dẫn đầu đoàn diễn hành
Nhịp chân đều đi vào lòng dân tộc
Ánh mắ tngời độc lập, tự do
Đoàn phản lực vẽ mầu trên không phận
Đưa niềm vui lên vút tận trời xanh
Niềm vui toả khắp thị thành
Cả nước tưng bừng hoan hỉ
Riêng một góc công viên
nơi Đài Tử sĩ
Dưới lá cờ vàng sọc đỏ
Có người con gá iViệt Nam
Em ngồi đây lặng yên như cây cỏ
Lệ đầm đìa ướt vạt áo lam
Nhòe hàngchữ trên trang thơ nhỏ
Thư của “út Chó” gửi “chị Năm”
13 –
. . . “Bố bị cùm chân trong trại giam
Mẹ và em đói nghèo kham khổ ” . . .
Đau thương òa vỡ
Xót xa buồn . . . em khóc giữa ngày vui
Tội nghiệp quê hương
Tội nghiệp em tôi
Trần Quốc Bảo
Ban-Mê-Thuột
Ban-Mê-Thuột,
Thị xã buồn muôn thuở, tỉnh Darlac
Buôn, Làng rải rác trên các sườn đồi
Vùng cao nguyên đất đỏ
Vài con phố nhỏ quanh co
Nơi đây, cò gáy khỉ ho, nghèo nàn!
Nhưng dân tình sống bình an
Nương khoai, dãy sắn, chẳng than van nửa lời
Buổi sáng mù trời, che khuất núi Chư-Prong
Vang tiếng chuông nhà thờ Phú-Long báo thức
Buổi chiều, gió thoảng hương hoa rừng thơm phức
Tràng mõ chùa Dược-Sư, hư thực nhặt khoan
Phi trường Phụng-Dực – Ngôi chợ Phước-An
Kinh Thượng gặp nhau hỏi han quí mến
Nhưng du khách từ phương xa đến, bỡ ngỡ đôi phần
Đàn ông Rhađê đóng khố, phụ nữ Giarai ngực trần
Núi rừng hoang dã, chốn nương thân
Họ là những thiên thần miền sơn cước
“Nhớ về thác nước Dray-Liên
Mà xem sơn nữ tắm tiên cả bày!” (*)
. . . Đó Ban-Mê-Thuột !
Với Buôn-Hô, Lạc Thiện, Dakliu
Trên vùng cao nguyên Trung Viêt
Chốn buồn hiu, mà thiệt dễ thương
Ai ngờ khói lửa chiến trường
Gây nên bao cảnh máu xương nơi này
Mất Quê Hương khởi tự đây
Ban-Mê-Thuột hỡi ! Đắng cay vô cùng !!!
Mất em, ta mất xứ Trung
Mất theo tất cả bốn Vùng miền Nam!
Cuối cùng … buông súng … tan hàng!
Nỗi buồn muôn thuở, ta mang trọn đời
Ban-Mê-Thuột! … Sơn nữ ơi!
Mũi tên đâm suốt tim người chiến binh !!!
(*) Ca dao miền sơn cước
Xin mời Quý Vị Thân Hữu thưởng thức bài thơ “Đưa Thu vào Mộng” của Nhà Thơ Trần Quốc Bảo (Richmond, Va.).
Quê Hương Tôi Bây Giờ
Quê hương tôi bây giờ, lớp cán gộc
Một lũ lưu manh tàn độc vô cùng
Đàn áp dân, đến cực ác cùng hung
Không cho dân, tỏ bày lòng ái quốc!
Quê hương tôi bây giờ, bọn cầm quyền bạo ngược
Ham bạc tiền, đem bán cả non sông
Bọn phản quốc: Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng
Ký công hàm, dâng biển Đông cho giặc
Quê hương tôi bây giờ, từ Nam chí Bắc
Bọn Tầu phủ, mặc sức chiếm đặc khu
Việt cộng, hèn với giặc, có mắt như mù
Không nhìn thấy bảng: [Cấm Việt Nam lai vãng]
Quê hương tôi bây giờ, yêu Nước là yêu đảng
Mà “đảng” là tư tưởng Mao trạch Đông
Hồ chí Minh, tên Tầu chệt lộn sòng
Đảng bịp bợm, xây lăng Ba đình sùng bái
Quê hương tôi bây giờ, tinh thần hủ bại
Phụ nữ lột truồng, đem bán như cá tôm
Trong trường học, thày trò “tục tĩu…” luôn mồm!
Bọn cầm quyền, hối lộ, lưu manh … làm lẽ sống!
Quê hương tôi bây giờ, vẫn núi cao, biển rộng
Nhưng núi tàn, biển chết, ruộng đất khô cằn!
Bày trẻ thơ, lang thang, rách rưới, thiếu ăn
Những Mẹ già sống như oan hồn vất vưởng
Quê hương bây giờ, chỉ còn trong tâm tưởng
Tôi yêu Quê Hương ! yêu đến trọn đời !!!
Nhưng thực tế: Việt Nam đâu còn là quê tôi
Mành đất ấy, hiện nay quỉ ma ngự trị !
Trần Quốc Bảo
CÔNG TRƯỜNG CHIẾN SĨ

Tôi đang đứng, giữa Công trường Chiến sĩ,
Những bạn bè xưa, giờ đã không còn!
Một nơi nào đó, Người đang yên nghỉ,
Góc nghĩa trang, hay…đáy biển, sườn non.
 
Khẩu súng, lưỡi lê, chắc nay hoen rỉ?
Cái nón sắt, lũng vài lỗ đạn tròn.
Bình bi-đông, làm sao mà bẹp dí?
Đôi giầy saut há mõm, đế vẹt mòn.

Tấm thẻ bài nhuộm máu, nhìn cũ kỹ,
Nhưng số quân hiện rõ, vẫn còn ngon!
Chiếc poncho đâu rồi… không thấy nhỉ?
Chắc quấn thân anh, tan rã chẳng còn!
 
Tôi đang đứng trước Công trường Chiến sĩ,
Nước mắt chảy dài, nghĩ đến Nước non!
Ôi! Việt Nam ! Quê hương tôi yêu qúi!
Mà bây giờ, sao… tan nát héo hon?
 
Tôi từng sống, trong đôi quân hùng vĩ!
Vào sinh ra tử, mấy chục năm trường!
Rồi cuối cùng, vào vòng quay thế kỷ.
Mất Sài gòn … tôi mất cả Quê Hương!
 
Tôi chăm chú, nhìn tượng Người Chiến sĩ…
Chợt hiển linh, mặt vẫn nét sắt son!
Ánh mắt Người bỗng bừng bừng dũng khí!
Như thuở nào, xung trận giữ Giang sơn!
              Trần Quốc Bảo  
  Đặc khu Rừng Sát   
 
Sài gòn thuyền ra biển Đông,
Thủy lộ quan trọng, là sông Nhà Bè.
Lưu thông, tấp nập buồm ghe,
Thương thuyền chiến hạm, tầu bè vãng lai.
 
Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về! (ca dao)
Hai nhánh của sông Nhà Bè,
Hướng Tây Soài Rạp, có bề hơi nông.

Lỏng Tảo, chảy về hướng Đông,
Sông sâu, thuyền lớn lưu thông dễ dàng.
Hai  nhánh sông này băng ngang,
Đặc khu Rừng Sát, đất hoang sình lầy!

Thuộc vùng tứ giác Đồng Nai,
Chiến khu cộng sản, kề ngay Sài Gòn!
Việt cộng, lũ giặc ác ôn!
Phóng tay tàn sát, vùi chôn xác người!
 
Trùng trùng tội ác ngập trời.
Cái tên “Rừng Sát” để đời, ô danh!
Suốt mấy chục năm chiến tranh,
Biết bao thân xác dân lành chết oan!
 
Để ngăn hành động dã man,
Việt Nam  thành lập, Giang Đoàn Đặc Khu,
Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù.
Liên quân bảo vệ Thủ Đô Sài gòn.
 
Hết lòng gìn giữ Nước Non,
Để trong tao loạn, dân còn sống vui!
Than ôi! quốc vận mạt thời!
Ai ngờ đất nước, tới hồi nát tan!
 
Nhà Bè sóng vỗ nhặt khoan,
Có ai nghe tiếng khóc than vong hồn(!) ?
Biển Đông thuyền vô Sài Gòn,
Ngang qua “Rừng Sát” ai còn nhớ không?
          Trần Quốc Bảo
Bốn Ngàn Năm Tuổi Đá      
Này hỡi viên đá sỏi
Tại sao ngươi ưu phiền
Tại sao ngươi ngấn lệ
Ôm mối sầu triền miên?
 
Quê hương từ rừng hoang
Mẹ cha là sông núi
Cơn địa chấn kinh hoàng
Trôi dạt về đồng nội
 
Đỉnh Trường Sơn ngạo nghễ
Với lịch sử hùng anh
Trải qua bao thế hệ
Sừng sững giữa trời xanh
 
Tổ tiên ngươi hiển hách
Nay thân sỏi lót đường
Thuộc giống nòi cẩm thạch
Mà đọa đầy tang thương
 
Sỏi nằm đây nhớ rừng
Hồn gửi về sông núi
Thời gian như nhựa đường
Phủ lên đời đen tối
 
Cho nên ngươi uất hận
Cho nên ngươi ưu phiền
Bốn ngàn năm tuổi đá
Ôm mối sầu triền miên!
Trần Quốc Bảo
Tiễn Noọng Về Rừng 
Theo kha, noọng xuống thị thành  (*)
Mà lòng luôn nhớ rừng xanh, bản Mường
Nhà sàn, dốc núi mù sương
Hoa ban, sơn thảo, trầm hương thơm lừng!
 
Thì thôi!… noọng trở lại rừng
Về theo tiếng suối Đà Rùng gọi em
Thỏa lòng nhung nhớ sói Prenn
Hồn nhiên sơn nữ tắm tiên trưa hè

Thôi thì… thôi nhé!… noọng về
Đắm say khí núi, đê mê hương rừng
Nấm măng đầy ắp gùi lưng
Cồng chiêng khua động vui mừng đón em
 
Khăn phiêu, áo cóm hoa rèm
Khèn mây sáo mán, trăng đêm múa xòe
Chum cần, rượu bản vầu tre
Lửa hồng nghi ngút, lập lòe rừng thiêng

Đường về, chúc noọng bình yên
Dáng em mờ khuất trên triền núi xa
Thôi thì!… khi noọng nhớ kha
Trăng rừng soi bóng, vẫn là thấy nhau
          Trần Quốc Bảo
   (*) Chú thích, một vài thổ âm miền sơn cước: Kha=anh ; noọng=em ; bản=xóm,làng ; hoa ban=hoa dại,hoa rừng ; sói=thác nước ; gùi lưng=giỏ mây đeo sau lưng ; khăn phiêu áo cóm=khăn áo mầu mè sặc sỡ con gái mặc ngày hội hè ; khènmây sáo mán=nhạc cụ của dân miền thượng ; vầu=cái gáo múc rượu, nước.
Tiễn Noọng Về Rừng 
Theo kha, noọng xuống thị thành  (*)
Mà lòng luôn nhớ rừng xanh, bản Mường
Nhà sàn, dốc núi mù sương
Hoa ban, sơn thảo, trầm hương thơm lừng!
 
Thì thôi!… noọng trở lại rừng
Về theo tiếng suối Đà Rùng gọi em
Thỏa lòng nhung nhớ sói Prenn
Hồn nhiên sơn nữ tắm tiên trưa hè

Thôi thì… thôi nhé!… noọng về
Đắm say khí núi, đê mê hương rừng
Nấm măng đầy ắp gùi lưng
Cồng chiêng khua động vui mừng đón em
 
Khăn phiêu, áo cóm hoa rèm
Khèn mây sáo mán, trăng đêm múa xòe
Chum cần, rượu bản vầu tre
Lửa hồng nghi ngút, lập lòe rừng thiêng

Đường về, chúc noọng bình yên
Dáng em mờ khuất trên triền núi xa
Thôi thì!… khi noọng nhớ kha
Trăng rừng soi bóng, vẫn là thấy nhau
          Trần Quốc Bảo
(*) Chú thích, một vài thổ âm miền sơn cước: Kha=anh ; noọng=em ; bản=xóm,làng ; hoa ban=hoa dại,hoa rừng ; sói=thác nước ; gùi lưng=giỏ mây đeo sau lưng ; khăn phiêu áo cóm=khăn áo mầu mè sặc sỡ con gái mặc ngày hội hè ; khènmây sáo mán=nhạc cụcủa dân miền thượng ; vầu=cái gáo múc rượu, nước.
       Về Đây Với Biển  
 
Về đây với biển bao la,
Mà xem con sóng nở hoa bạc đầu!
Trùng dương thắm biếc một mầu,
Ô kìa!… nhật nguyệt, chìm sâu trong lòng!
 
Về đây đứng giữa mênh mông…
Mây vàng cát trắng, nắng hồng biển xanh,
Bọt bèo xô dạt đầu ghềnh,
Ngẫm đời mình cũng bập bềnh nổi trôi!
 
Về nghe dìu dặt ngàn khơi,
Trường ca biển hát những lời thiên nhiên.
Nhịp nhàng sóng vỗ triền miên
Bãi dài lữ khách hành thiền trầm ngâm…
  
Về nghe vang dội sóng ngầm,
Như trong lòng biển âm thầm sục sôi!
Bâng khuâng nhìn bãi cát bồi,
Nhớ xưa, nơi đó xanh ngời nương dâu.
 
Về đây nhìn cánh hải âu,
Ngàn trùng xa cách, từ đâu bay về.
Bày chim không tổ không quê,
Tiếng kêu khan lạnh, nghe tê tái lòng!

Về đây vào lúc hừng đông,
Mà xem, mặt biển vừng hồng nhô lên!
Thả hồn vào cõi vô biên,
Để mơ hồ thấy… biển miền Quê Hương.
           Trần Quốc Bảo
Em Bước Vào Thu
 
Em bước vào Thu như vào mộng,
Cây lá chung quanh, một sắc vàng.
Nắng vẫn chờ em ngoài cửa động,
Sao chân ngập ngừng… em hoang mang? 
 
Em bước vào Thu chiều hư ảo,
Thảm cỏ nằm, tương tư mầu xanh.
Khu vườn nhớ mùi hương thạch thảo,
Chiếc lá đầu cành, rơi rất nhanh!
 
Em vào Thu, dẫm trên xác lá,
Có nghe vụn vỡ, tiếng dòn tan!
Âm thầm chịu đau thương tàn tạ, 
Làm sao em biết, lá thở than?
 
Em bước vào Thu, rừng nức nở,
Thoảng nghe tiếng chim kêu lạc đàn!
Trong chòm lá, nai vàng bỡ ngỡ…
Đầu cành mắt lệ, giọt sương tan!
 
Em bước vào Thu, trăng sắp rụng,
Thời gian đậu trên cánh phong lan.
Như mây phù du… Em sao biết
Thu vừa đến, là Thu sắp tàn!
 
Em vào Thu nghe gió thở dài.
Vàng Thu rực rỡ, để tàn phai!
Ngọn đèn bừng sáng, khi gần tắt,
Còn gì lưu luyến để ngày mai! (?)
           Trần Quốc Bảo
  
  Mùa Đông Tuyệt Vời  
 
Sao em nói mùa Đông “tàn” lụi hết?
Đông chỉ “ẩn tàng”, không chết đâu em!
Cũng như một ngày: có sáng, có đêm,
Đêm ta ngủ, rồi sáng mai thức dậy.
 
Thời tiết mỗi năm… xét ra cũng vậy,
Huyền diệu thiên cơ, từ thuở hỗn mang,
Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàng. (*)
Định luật âm dương, ngàn đời bất biến!
 
Tiết đông lạnh, nhưng mùa Đông dâng hiến:
“Tình Yêu Thương”, cho nhân loại tuyệt vời!
Mẹ ôm con, truyền hơi ấm, con ơi!
Chồng vợ đêm dài, quấn tròn hạnh phúc!
 
Sinh hoạt Cộng đồng, họp hành đông đúc,
Cũng trong Hội trường, ngồi xít bên nhau.
Dù xa lạ, dù chào hỏi xã giao,
Nhưng Tình Đồng Bào, thêm bề thắm thiết!
 
Đông tuyệt diễm, những ngày Đông xuống tuyết,
Cả bầu trời, thoắt hiện cảnh bồng lai!
Bạch tuyết thi, nguồn cảm hứng Đông hoài, (**)
Tĩnh tọa thiền, giác ngộ từng hơi thở!
 
Và cuối cùng: Mùa Đông ăn tô phở,
Bảo đảm rằng… phở ngon hết chỗ chê !!!
Tô phở mùa Đông, anh đợi em về
Về ngay nhé! Mùa Đông tràn hạnh phúc
 
           Trần Quốc Bảo
             
(*) “Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàng” mùa Xuân sinh ra. Mùa Hạ vươn lên, mùa Thu đạt thành ngừng lại, mùa Đông sự sống ẩn tàng (có người lầm là Đông tàn= mùa Đông chết)
(**) lấy ý, 1 câu trong bài 四 時 Tứ Thời
春 遊 芳 草 地    Xuân du phương thảo địa,
夏 賞 綠 荷 池    Hạ thưởng lục hà trì.
秋 飲 黃 花 酒    Thu ẩm hoàng hoa tửu,
冬 吟 白 雪 詩    Đông ngâm bạch tuyết thi.
 
Bốn Mùa    (Trần Quốc Bảo dịch thơ)
Xuân thăm miền cỏ thơm
Hạ ngắm hồ sen biếc
Thu uống rượu hoàng hoa
Đông ngâm thơ bạch tuyết
Ngày April 25.2018, là ngày mùng 10 tháng 3 năm MậuTuất Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
Quốc Tổ Hùng Vương
Dù ai lưu lạc đường xa,
Nhớ ngày Giỗ Tổ, tháng Ba, mùng Mười
Tổ Hùng Vương, mười tám đời
Trường tồn thiên địa, rạng ngời trăng sao.
Đền Hùng ở phủ Lâm Thao
Trên sườn Nghĩa Lĩnh, non cao chập chùng
Giữa sông Lô và sông Hồng
Giang sơn cẩm tú, một vùng địa linh.
Giống nòi Quốc Tổ khai sinh
Công ơn lập quốc, định hình núi sông
Chim có Tổ, người có Tông
Việt Nam nguồn gốc con Rồng, cháu Tiên.
Toàn dân ở khắp mọi miền,
Một lòng thờ kínhTổ Tiên muôn đời.
Dù ai đi ngược về xuôi (ca dao)
Nhớ ngày giỗ Tổ, mùng Mười, tháng Ba.
Trần Quốc Bảo
Hãy Trả Lại Tên SÀI-GÒN!
Ông bà cha mẹ Tổ tiên
Sinh ra Em, đã đặt tên Sài-gòn
Sài-gòn biểu tượng Nước Non
Sài-gòn là của Giang sơn Quê nhà
Sài-gòn thân thương đậm đà
Sài-gòn xinh đẹp. Em là trân châu
Miền Á-Đông, Em hàng đầu
Sài-gòn mỹ lệ, toàn cầu vinh danh
Giặc cờ đỏ, lũ gian manh
Sài-gòn tên đẹp – đổi thành tên ma
Hãy trả lại tên cho Ta!
Tên thằng ác quỷ, ném ra Ba đình!
Sài-gòn, địa danh hữu tình
Ta không chấp nhận, hôi rình tên ma!
Trả SÀI-GÒN lại cho Ta !!!
Trần Quốc Bảo
NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA
Chao ôi ! …
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
Qua cơn dâu bể, thấy mà thảm thương!
Bên thắng trận, lũ bất lương
Trả thù đến cả nắm xương dưới mồ
Rấp rào ngăn chận đường vô
Trồng cây rậm rịt, tựa hồ rừng hoang
Đập hư khu “Vành Khăn Tang”
Nhiều ngôi mộ bị san bằng mất ghi
”Đền Tử Sĩ” cỏ rậm rì
Tượng “Thương Tiếc” chúng phá đi lâu rồi!
Bôi lem luốc “Nghĩa Dũng Đài”
Biểu dương thú tính của loài cộng nô
Đục bia, chà đạp nấm mồ
Phóng tay hành động, côn đồ bất nhân!
Xúc phạm đến chốn tử phần
Hiện hình cộng phỉ, hung thần quỉ ma
Than ôi ! …
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
Trong tay ác quỷ, thấy mà thảm thương!
Trần Quốc Bảo
TỔ QUỐC LÂM NGUY!
Thơ Trần Quốc Bảo.
Than ôi! vận Nước suy vi,
“Việt Nam” Tổ Quốc lâm nguy mất rồi!
Quê hương gìn giữ bao đời
Hồn thiêng, xương máu, tài bồi giang san.
Vào tay Cộng phỉ gian tham,
Tới nay đất nước tan hoang thảm sầu,
Một lòng thờ Đảng, thờ Tầu
Buôn dân, bán nước, làm giầu cho nhanh.
7 –
Phạm văn Đồng hiến biển xanh,
Ký công hàm, nhận đường ranh “lưỡi bò”
Đàn em nó cũng một lò
Nam Quan, lùi đất nhượng cho giặc Tầu.
Xâm lăng kiểu tằm ăn dâu,
Tung tiền, Tầu cộng “đấu thầu kinh doanh”
Mua phố xá, mua rừng xanh
Tường cao, rào kín, biến thành “đặc khu”
Những tên việt cộng chóp bu,
Đô-la hàng tỷ, chúng thu đều đều…
Xây nhà đồ sộ, hạng “siêu”
Gửi tiền Thụy Sĩ dưới nhiều tên ma.
Rõ ràng Tầu chiếm nước ta,
Không cần súng đạn, thế mà thành công
Suốt ba miền Bắc Nam Trung
Tỉnh nào nó cũng có vùng “đặc khu”.
Những tên Việt Cộng tham ngu,
Vì tiền, nhắm mắt giả mù mất khôn
Vân phong, Phú quốc, Vân đồn
Đảng bày ra luật, bán luôn cho Tầu!
Than ôi! Nước mất từ lâu,
Sàigòn Hà Nội… cờ Tầu sáu sao!
Hãy vùng lên! Hỡi đồng bào!
Giặc vào nhà, có lẽ nào ngủ yên.
Dẹp tan Việt Cộng đầu tiên,
Toàn dân dành lại chủ quyền non sông
Trong Nước, ngoài Nước một lòng
Xứng danh nòi giống con Rồng cháu Tiên./.
Trần Quốc Bảo
 Richmond, Virginia
Chuyện Phi Thường
Quê tôi có chuyện phi thường
Toàn dân vùng dậy, xuống đường đấu tranh
Đả đảo Cộng sản gian manh!
Gây nên thảm họa, tan tành núi sông
Phản bội nòi giống Tiên Rồng
Giang sơn, biển đảo, hiến dâng quân thù
Ham tiền, bán cả Đặc Khu
Âm mưu giao trọn Tầu phù, biên cương
Quê tôi có chuyện phi thường
Người dân chống Cộng, tràn đường khắp nơi
Biểu dương hùng khí ngất trời!
Tấm lòng yêu Nước ngời ngời trăng sao
Năm Châu, Thế Giới trông vào
Càng đàn áp mạnh; Càng cao tinh thần!
Bạo quyền Cộng đảng bất nhân
Đánh dân đổ máu, muôn phần bi thương!
Quê tôi có chuyện phi thường
Các em nhỏ, cũng xuống đường đấu tranh
Mặc dù trong tuổi học sinh
Hồn thơ ngây vẫn nặng Tình Núi Sông
Trẻ già, son sắt một lòng
Giặc vào nhà, quyết xung phong đuổi thù
Diệt trừ Việt-cộng, Tầu-phù
Để cho Đất Tổ, thiên thu phú cường!
Quê tôi có chuyện phi thường
Toàn dân nay đã kiên cường vùng lên
Ghét Cộng, như lũ chó điên
Không còn sợ Đảng; liên miên biểu tình
Lòng “Yêu Nước”, đã hiện hình
Trong Nước ngoài Nước, liên minh toàn cầu!
Khó khăn mấy,cũng đương đầu
Không thì nô lệ thằng Tầu, mục xương !!!
Quê tôi có chuyện phi thường
Cụ già chống gậy xuống đường hiên ngang
Các con cháu cũng dàn hàng
Tay cầm biểu ngữ hô vang “Đuổi Tầu !!!”
Người Việt ở khắp năm Châu
Hết lòng yểm trợ, cùng nhau biểu tình.
Nguyện cầu Quốc Tổ anh linh
Hộ phù Nước Việt, chuyển mình“thoát Trung”!
Trần Quốc Bảo
ĐƯA THU VÀO MỘNG
Trăng trắng ngà, giữa ngàn sao lấp lánh,
Sương mơ màng, trên đỉnh núi xa xa
Cúc nở nụ cười chúm chím vàng hoa
Tường vi đỏ, như môi cô hàng xóm.
Nắng hồng trên cỏ, chớp lia đom đóm,
Ấy là Thu!… Thu đã tới trước nhà!
Chào đón Nàng, có giọng hát sơn ca
Đàn bướm nhỏ, bay chập chờn khiêu vũ.
Cả rừng phong, áo muôn mầu quyến rũ,
Liễu nghiêng đầu, hong mái tóc xanh lơ
Mây lưng trời, bỗng dừng lại ngẩn ngơ
Gió mơn trớn đa tình hôn trên má.
Chao ôi! Thu dịu hiền… yêu Thu quá!
Một trời Thu… hay tất cả là Thơ?
Ánh trăng thanh, nhuộm vũ trụ huyền mơ
Đêm buông xuống, ta đưa Thu vào mộng.
Đành đã biết, Thu ôm tròn lẽ sống,
Nhưng xá gì… lá rụng với mây bay!
“Thu ẩm hoàng hoa tửu” (*) ngất ngây say
Há phải đợi Đông về ngâm Bạch Tuyết!
Rót tự trái tim, những dòng trác tuyệt,
Đưa tình Thu, lên cung Nguyệt mơ màng
Xa chốn trần ai, ô nhiễm, hỗn mang
Thu nhập hồn Thơ… lênh đênh trời mộng!
Trần Quốc Bảo Richmond, Virginia
. Địa chỉ điện thư của Tác Giả quocbao_30@yahoo.com
*)Cổ thi: “Thu ẩm hoàng hoa tửu, Đông ngâm bạch tuyết thi”.
Nhà Thơ Trần Quốc Bảo (Richmond, Va.).
LỆ THU

Hãy về đây! dù mây trời vần vũ
Mù mịt núi sông, mưa lũ gió ngàn
Hãy về đây! dù dông tố hoang tàn!
Ta vẫn đợi Thu về, tràn thương mến!
Những thảm họa, từ thiên tai đưa đến
Đổ tại Thu (?) … oan nghiệt lắm Thu ơi!
Dúng tên mỹ nhân để gọi bão trời?
Than ôi! mịệng lưỡi loài người nham hiểm!
Rất hiền lành, Thu tuyệt vời kiều diễm
Ta yêu Thu, từ muôn vạn kiếp người
Nhưng gặp nhau, sao đẫm lệ Thu rơi …?
Tình giang dở như Ngưu Lang Chức Nữ!
Đường Thu đến, là con đường tình sử
Đường Tình nào mà chẳng có phong ba!
Mắt lệ đong đầy Em đang đến cùng ta
Ta đón nhận Tình Thu trong bão táp !!!
Trần Quốc Bảo
Thương Tiếc ĐKG. Nguyễn Thanh Thu
  Thơ Trần Quốc Bảo

 



Thương Tiếc Điêu Khắc Gia
        Nguyễn Thanh Thu
 
Anh đã ra đi, nhưng anh không chết
Như bức tượng Thương Tiếc, mãi vẫn còn
Dù ngoại hình theo vận Nước hao mòn
Hồn vẫn trường sinh trong Quân Sử Việt
 
Nguyễn Thanh Thu điêu khắc gia trác tuyệt
Pho “Thương Tiếc” mang Hồn Lính oai hùng
Dáng ngồi như núi! Trầm tĩnh ung dung
Thường linh hiển, những đêm trăng huyền ảo


    
 Nhiều tượng khác, xuất thần đầy sáng tạo
Như pho tượng lừng danh, tên “Ngày Về”
Hình người chiến sĩ trở lại đồng quê
Biểu tượng hòa bình, niềm vui chất ngất
 
Tượng ấy đoạt giải Văn Chương Nghệ Thuật
Của Tổng Thống Diệm, Đệ Nhất Cộng Hòa
Nguyễn Thanh Thu sống bình dị, xuề xòa
Song đích thực một tài năng siêu việt
 
    
 ĐKG Nguyễn Thanh Thu (2024) 

Tượng “Chiến Sĩ Vô Danh”, tượng “Trung Liệt”
Đặt trong nghĩa trang “Quân Đội Cộng Hòa”
Tại quận Gò Vấp, nơi anh sinh ra
Cả hai tượng đều mang Hồn Tử Sĩ
 
Đặc biệt tượng “An Dương Vương” hùng vĩ
Tọa lạc ngã sáu Chợ Lớn nguy nga
Ghi tích Vua Nam Việt đánh Triệu Đà
Dùng nỏ thần Kim Quy, đuổi giặc
 
Nguyễn Thanh Thu chỉ miệt mài điêu khắc
Thế mà sau Quốc Hận cũng vô tù
Trong tù, quyết không khắc tượng cáo Hồ
Cam chịu tám năm khổ sai ác liệt
 
Nay, Nguyễn Thanh Thu về miền Tịnh Viễn
Dâng hương trầm, tôi tiễn Bạn tri âm
Với những dòng thơ xuất tự thâm tâm
Ngậm ngùi Thương Tiếc, thay lời tống biệt.
          Trần Quốc Bảo
~~~o~~~
Kính mời đọc thêm về  cố Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu-Tác giả pho tượng Thương Tiếc   (xin mở Attach.)
     Em Ơi, Hè Đã Về Rồi!    
Em Ơi, Hè Đã Về Rồi!    
Em ơi Hè đã về rồi!
Ánh hồng rực rỡ khung trời bao la,
Chim đàn ríu rít vui ca,
Bướm vàng khiêu vũ bên hoa muôn mầu!

Gió ve vuốt ngọn trúc đào,
Hai con chim nhỏ hôn nhau trên cành!
Đóa hồng mỉm nụ cười xinh,
Nắng ươm biếc cỏ lung linh ven đồi.

Em ơi Hè đã về rồi!
Về đây nghe biển hát lời yêu thương,
Dạo trên bờ Đại tây dương,
Tưởng như bãi cát Quê hương Vũng Tàu!
 
Trườn lên con sóng bạc đầu,
Để cho nước cuốn u sầu ra khơi!
Nắng Hè tỏa ấm khắp nơi,
Yêu thương tràn ngập tình người tha phương.
 
          Trần Quốc Bảo
Lòng Bố Thương Con   

Lòng Bố Thương Con
Nhất cao là núi Tản Viên!  
Lòng Bố thương con vô biên,
Sánh cao hơn núi!
Lòng Bố thương con,
Sánh cao bằng Trời.
 
Bố cho con ra đời,
Bố cho con cuộc sống tuyệt vời!
Khi bé tí.  Bố cõng con đi chơi.
Khi trưởng thành,  Bố dạy con làm người,
 
Con theo chân Bố,
Hi sinh phụng sự cho đời.
Con noi gương Bố,
Yêu thương ban phát nụ cười.
Sống ngay thẳng.  Sống hiền hòa vui tươi.
Lòng Bố thương con,
Sánh cao bằng Trời!
 
Bố ơi,  Bố ơi! 
Con thương Bố nhiều,
Lời Bố dạy là ánh đuốc sáng ngời!
Bố ơi,  Bố ơi! 
Con thương Bố lắm!
Hình bóng Bố
Là sức mạnh tuyệt vời!
Trong trái tim con. Trong hồn con suốt đời.
          Trần Quốc Bảo
 CÔNG TRƯỜNG CHIẾN SĨ
                                                 
Tôi đang đứng, giữa Công trường Chiến sĩ,
Những bạn bè xưa, giờ đã không còn!
Một nơi nào đó, Người đang yên nghỉ,
Góc nghĩa trang, hay…đáy biển, sườn non.
 
Khẩu súng, lưỡi lê, chắc nay hoen rỉ?
Cái nón sắt, lũng vài lỗ đạn tròn.
Bình bi-đông, làm sao mà bẹp dí?
Đôi giầy saut há mõm, đế vẹt mòn.

Tấm thẻ bài nhuộm máu, nhìn cũ kỹ,
Nhưng số quân hiện rõ, vẫn còn ngon!
Chiếc poncho đâu rồi… không thấy nhỉ?
Chắc quấn thân anh, tan rã chẳng còn!
 
Tôi đang đứng trước Công trường Chiến sĩ,
Nước mắt chảy dài, nghĩ đến Nước non!
Ôi! Việt Nam ! Quê hương tôi yêu qúi!
Mà bây giờ, sao… tan nát héo hon?
 
Tôi từng sống, trong đôi quân hùng vĩ!
Vào sinh ra tử, mấy chục năm trường!
Rồi cuối cùng, vào vòng quay thế kỷ.
Mất Sài gòn … tôi mất cả Quê Hương!
 
Tôi chăm chú, nhìn tượng Người Chiến sĩ…
Chợt hiển linh, mặt vẫn nét sắt son!
Ánh mắt Người bỗng bừng bừng dũng khí!
Như thuở nào, xung trận giữ Giang sơn!
             Trần Quốc Bảo                  
Kính mời Qúi Thân Hữu hãy dành chút thời gian,tới “Công trường Chiến Sĩ” để tưởng nhớ những quân nhân đã hi sinh xương máu bảo vệ VNCH và đồng bào Miền Nam VN.
Dù cuộc chiến thắng, bại, dù giang sơn còn, mất; Tổ Quốc Việt Nam vẫn luôn ngời sáng trong Trái Tim chúng ta.  
Chúng ta không bao giờ quên những Anh Hùng Tử Sĩ Việt Nam đã Vị Quốc Vong Thân.  
Nhạc khúc Công trường Chiến Sĩ
Thơ Trần Quốc Bảo  – Nhạc Lê Xuân Mai –  Ca Sĩ: Đặng Phước Hải
 Bạc Liêu Thương Nhớ Mặn Mòi  


Lang thang vạn nẻo, quê người,
Lòng tôi vẫn một phương trời Bạc Liêu!
Miền Nam, dải đất thân yêu,
Luyến lưu kỷ niệm, bao nhiêu mối tình!
 
Tình bằng hữu, tình gia đình,
Tình sông, tình biển, lại tình Bạc Liêu!
Nhớ ngày, họp bạn lính nghèo,
Đãi nhau, bữa cá bống kèo đã nư!


Cá bống kèo, loại sản ngư,
Sống nơi nước lợ, đồng chua sình lầy.
Nước ngọt, không có giống này,
Bạc Liêu ghé tới, có ngay bống kèo.
 
Ngoài ra, thổ sản cũng nhiều!
Nhãn, đào, cam, vải, hột điều, mía lau…
Tuy nhiên, nổi tiếng từ lâu,
Là nghề làm muối, trắng phau diêm điền! (*)
 

Nghề làm muối tại Bạc Liêu

 
Muối từ nước biển tự nhiên,
Bơm lên mảnh ruộng phía trên cho đầy.
Chờ cho bắt nắng vài ngày,
Nước bay hơi; muối phơi bày trắng tinh!
 
Nắng soi, ruộng muối lung linh,
Muối khô, tinh thể mang hình lập phương.
Muối Bạc Liêu, trên thương trường,
Sản phẩm tinh khiết, giá thường phải chăng.

 

Cô Tư, gánh muối về làng,
Trăng soi hai thúng, ánh vàng lung linh!
Mặn mòi một gánh đa tình…
Tình sông, tình biển, lại tình Bạc Liêu!
        Trần Quốc Bảo
          (*) Diêm điền = Ruộng muối.
Tiễn Thu        

Trời lạnh, mưa dầm… buồn cách chi!
Theo mây, Thu lặng lẽ ra đi,
Chẳng lưu dấu vết gì trên tuyết,
Em một mình, làm cuộc biệt ly!
 
Trơ trụi rừng hoang, vắng bóng Nai,
Đầu cành đẫm lệ, giọt sương mai.
Từng cơn gió lạnh về heo hút,
Em có nghe, tường vi thở dài?
 
Chuẩn bị cho mùa Đông sắp qua,
Sóc nâu tìm hạt, sau vườn nhà,
Hai tay bới đất, ôi! thương quá!
Em chạnh lòng, nhìn Sóc xót xa!
 
Thơ thẩn góc sân, chú Thỏ già,
Mơ màng, ngắm cảnh trời bao la,
Tương tư Thu… bóng Thu vừa khuất,
Dáng trầm buồn như một triết gia!
 
Từng khóm hoa, tơi tả cúi đầu,
Hương Thu tàn, cúc ngả mầu nâu.
Mấy chồi thược dược, còn trơ cuống!
Đàn Bướm vàng, bây giờ ở đâu?
 
Ngàn mây ảm đạm trên trời cao,
Em tiễn Thu đi về hướng nào?
Vẫn chiếc lá vàng cài mái tóc,
Lệ Thu vương mắt, buồn nao nao!…
 
           Trần Quốc Bảo
    Mừng Chúa Giáng Trần
 
Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần,
Cửa trời rộng mở, Hồng Ân chan hòa!  
Đón mừng Thiên Chúa sinh ra,
Dọn mình Mùa Vọng, hồn ta tinh tuyền.
 
Giao hòa với đấng Siêu Nhiên,
Lãnh ơn Cứu Độ, trọn niềm ước ao!
Tôn vinh Thượng Đế tối cao!
Ơn lành bao phủ dạt dào thế nhân.
 
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống trần,
Chọn nơi máng cỏ thanh bần giáng sinh.
Ước chi ta dọn hồn mình,
Trở nên máng cỏ, cung nghinh Chúa Trời!
 
Làm sao rũ sạch bụi đời,
Khiêm nhường đạo đức, tuyệt vời thiện nhân!
Cậy tin kính mến ân cần,
Sẳn sàng để Chúa, giáng trần trong ta.
 
Mục đồng mừng Chúa sinh ra,
Giữa nơi đồng vắng, tuyết sa lạnh lùng.
Ước gì cũng như mục đồng ,
Ta ôm máng cỏ, với lòng trẻ thơ
 
Hết lòng tôn kính phụng thờ,
Thánh Tâm Thiên Chúa, giấc mơ trọn đời!
“ Sáng danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.


         Trần Quốc Bảo
Chiếc Nón Sắt Trên Bia Mộ Thơ Trần Quốc Bảo
 Trần Quốc Bảo

bia mo 1
         Chiếc Nón Sắt Trên Bia Mộ
Anh đi rồi, chiếc nón sắt để lại,
Úp trên bia mộ, kỷ vật cuối cùng.
Hiện trên nón, những dấu tích kiêu hùng!
Của người chiến binh, địa đầu tuyến lửa!
Tấm vải bọc ngoài, rằn ri da hổ,
Mầu oai phong, của Binh Chủng Nhảy dù!
Bốn Vùng Chiến thuật, lũ giặc cộng nô,
Thoáng bóng cọp, là kinh hồn bạt vía!
bia mo 2
Quanh sườn nón, có một vài lũng khía,
Ấy dấu đạn thù, bắn xớt qua đầu!
Lằn đạn trượt nghiêng, nhờ nón quay mau,
Cứu sống lính, trong đường tơ kẽ tóc!
Đường hành quân, vượt núi rừng khó nhọc,
Đầy bi-đông, song nước chẳng đủ dùng.
Mỗi khi đi ngang, khe suối hồ sông,
Trữ nước tạm thời, nhờ chiếc nón sắt.
 bia mo 3
Lương thực hành quân, gạo sấy luôn sẵn,
Rưới chút nước vô, có thể ăn liền.
Tuy nhiên dừng quân, được chốn bình yên,
Dùng nón sắt nấu bữa cơm chắc bụng!
Với chiếc nón sắt, lính xài đa dụng,
Úp xuống thành ghế, thoải mái ngồi trên.
Khi thèm hút thuốc, sợ lửa lóe lên .
Che nón sắt, rít một hơi… mê mẩn!
bia mo 4
Này, nhìn kỹ trên vành nón lính trận,
Thấy ghi nắn nót, “Tên Một Loài Hoa”
Tên Người Yêu, hoặc tên Vợ ở nhà,
Nằm trên nón, trong tim người chiến sĩ!
Xin chào Anh!… Chào nón sắt hoen rỉ,
Hồn linh thiêng, xin phù hộ Quê Hương!
Truyền lại cháu con, dũng khí kiên cường,
Một ngày không xa, vùng lên cứu Nước!
                        Trần Quốc Bảo
                    Richmond, Virginia
Ca Dao Lính
Đời Lính
Thứ nhất, là lính đa tình
Tình yêu Tổ Quốc và tình yêu …”ai”
Thứ nhì là lính ba gai
Hôm nay say xỉn, ngày mai lên đường !
Binh nhì
Quan to, súng ngắn, em ơi!
Anh là binh bét, anh chơi súng trường
9 –
Có thương lính trận thì thương !
Suốt đêm “cắc cụp” súng trường lai rai
Pháo Binh
Chồng em là lính Pháo binh
Nửa đêm, ảnh bắn rung rinh cái giường!
Ai ơi! Ra trận mà xem …
Chồng em nạp đạn, cho em kéo cò!
Cà nông anh ngóc lên chưa?
Để em chàng hảng, em đưa đạn vào.
Truyền Tin (ViễnThông)
Chồng em là lính Truyền Tin
Lúc nào cũng lận cục pin trong quần!
-Viễn Thông trong cuộc hành quân
Đi đâu cũng ngỏng cái cần ăng-ten!
Địa Phương Quân
Em yêu anh Địa Phương Quân
Anh là người lính, người dân trong làng
Thủy Quân Lục Chiến
Thủy Quân Lục Chiến em thương
Vì anh giải quyết chiến trường thiệt nhanh!
Thiết Giáp Binh
Kỵ binh, lỳ nhất trên đời
Chọc thủng phòng tuyến (là) anh chơi hết mình!
10 –
Nữ Quân Nhân
Nữ nhi vì Nước xả thân
Thấy Nàng xung trận, đich quân co vòi!
Không Quân
Thứ nhất, là lấy Không Quân
Ảnh lái khu trục, ảnh quần nát khu!
Nhảy Dù
Thứ nhì, lấy anh Nhảy Dù
Tối ngày, ảnh nhảy lu bù, em ơi!
Hải Quân
Hải Quân le lói nhất đời
Lấy anh, anh dạy em bơi trên giường!
Công Binh
Công Binh, “kiến thiết” làm đầu
Tối ngày vác sắt, xây cầu cho dân.
Cảnh sát Quốc Gia
Anh là Cảnh sát Quốc gia
Cũng là người lính, cũng ra chiến trường
Đường tên, mũi đạn coi thường
Cảnh sát Dã chiến (là) em thương hết mình!
Em yêu ai?
Lính nào cũng lính Quốc Gia
Lính nào cũng lính Cộng Hòa Việt Nam
11 –
Đời lính chẳng quản gian nan
Hy sinh tính mạng giữ giang san nhà
Yêu ai… em chả nói ra
Ai xung phong trước, về nhà với em!
(“Ca Dao Lính” – Trần Quốc Bảo sưu tập )
MƠ MỘT QUÊ HƯƠNG
Tôi mơ có một Quê Hương:
“Toàn dân no ấm, Tình Thương chan hòa
Chín mươi triệu dân ; một nhà
Coi nhau ruột thịt, như là anh em
Tự do, Hạnh phúc êm đềm
Quốc dân tạo dựng “Chính quyền Vì dân”
Nếp nhà: “Đạo, Đức, Nghĩa, Nhân”
Văn minh Thế giới góp phần Quê tôi
Ước mơ nào quá xa vời
Việt Nam – Quê đã một thời như mơ
Nhưng, than ôi ! có đâu ngờ!
Ngọn đèn phụt tắt, bây giờ tối tăm!
Quê tôi, nay những hờn căm
Lưỡi dao Cộng sản băm vằm nát Quê
Lòng dân ai oán não nề!
Bao giờ ánh sáng trở về Quê Tôi (!) ?
Trần Quốc Bảo
LÊNH ĐÊNH
Thơ Trần Quốc Bảo.
Mênh mông sông nước,
Mịt mờ nẻo xa,
Bờ hoang bến vắng không nhà!
Lạnh khoang thuyền nhỏ, riêng ta một mình.
Phương trời nào cũng buồn tênh,
Túi thơ bầu rượu, bồng bềnh nổi trôi
Cố hương xa, đã xa rồi,
Cắm sào hờ hững quê người… quê ta!
Đáy lòng, chợt thấy xót xa,
Vẫn tương tư dải Sơn Hà yêu thương!
Nữa rồi… mai lại căng buồm…
Lênh đênh bốn bể, biết phương trời nào?
Trần Quốc Bảo
MỘT TRỜI ĐẦY THƠ

Ven rừng êm ả chiều Thu
Hàng cây vương lớp sa mù chơi vơi
Em ngồi nhặt lá vàng rơi
Cho anh giây phút tuyệt vời mộng mơ
Nụ cười nửa miệng ngây thơ
Hồn nhiên cặp mắt nai tơ dịu hiền
Lả lơi buông mái tóc huyền
Hương thu đượm cánh tay tiên nõn nà
Gót hồng rón rén thu qua
Dáng em tình tứ, nhạt nhòa dáng thu
Gió ngàn trổi nhạc vi vu
Mây ngơ ngẩn bước phiêu du bồi hồi
Bâng khuâng nhẹ chiếc lá rơi
Trời Thu hay cả một trời đầy Thơ?
Chiều vàng như thực như mơ
Giáng tiên say đắm thẫn thờ hồn anh!
Trần Quốc Bảo
Con Xin Hôn Mẹ  
                  
Con quí trọng vết nhăn trên mặt Mẹ,
Lớp da chập chùng như sóng đại dương!
Ấp ủ muôn trùng, lòng Mẹ yêu thương,
Muôn trùng hi sinh! – Muôn trùng đau đớn!
 
Để con sinh ra, để con khôn lớn.
Để hôm nay, con hiện diện giữa đời.
Me dạy con sống trọn đạo với Trời!
Và yêu người, như chính mình ta vậy.
 
Con không bao giờ quên lời Mẹ dạy,
Yêu Quê hương, yêu Tổ Quốc, giống nòi.
Mẹ đã dạy con: Thất bại mỉm cười…
Vịn lời Mẹ mà đứng lên can đảm!
 
Lời Mẹ dạy con: Thành công điềm đạm,
Mở rộng vòng tay giúp đỡ tha nhân.
Mẹ đã về Trời, xa cõi trầm luân…
Con vẫn yêu Mẹ như xưa còn bé.
 
Vì trong tim con, đậm hình bóng Mẹ!
Kỷ niệm tràn đầy như sóng đại dương.
Lòng Mẹ dạt dào, biển cả yêu thương.
Con xin hôn lớp nhăn trên mặt Mẹ!
 
             Trần Quốc Bảo
  Đối Diện Niềm Vui   

Ngày 4 tháng 7,
Tại Hoa Thịnh Đốn,
Có người con gái tóc bạch kim,
Tung tăng trên đường, nhảy nhót chân chim.
Nàng đi trước rừng cờ sặc sỡ,
Nắng tô hồng rực rỡ, má hây hây!
Ngọn gió đùa, thổi cánh áo tung bay,
Áo và váy cũng mầu cờ sặc sỡ.
 
Rất hồn nhiên,
Miệng cười rạng rỡ!
Vươn cao lồng ngực thiên thần!
Bàn tay ngọc, quay tròn cây súng nhựa.
Gót chân son, theo nhịp bước quân hành.
Kèn trống vang lừng!
Kỷ niệm ngày Hoa Kỳ độc lập.
Nỗi hân hoan tràn ngập Thủ đô!

Phố xá người đi, như nước vỡ bờ!
Trai gái ôm nhau khiêu vũ,
Mấy cụ già mừng rỡ, vỗ tay ca!
Em bé da đen, phe phảy lá cờ hoa,
Toe toét cười rất tươi trong nắng!
 
Người con gái tóc bạch kim,
Dẫn đầu đoàn diễn hành.
Nhịp chân đều, đi vào lòng dân tộc!
Ánh mắt ngời độc lập, tự do.
Đoàn phản lực, vẽ mầu trên không phận,
Đưa niềm vui lên vút tận trời xanh!
Niềm vui toả khắp thị thành,
Cả nước tưng bừng hoan hỉ!
Riêng một góc công viên,
nơi Đài Tử sĩ.
Dưới lá cờ vàng sọc đỏ,
Có người con gái Việt Nam.
Em ngồi đây, lặng yên như cây cỏ,
Lệ đầm đìa ướt vạt áo lam!
Nhòe hàng chữ, trên trang thơ nhỏ.
 
Thư của  “út Chó”  gửi  “chị Năm”
. . . “Bố bị cùm chân trong trại giam,
Mẹ và em, đói nghèo kham khổ ” . . .
Đau thương òa vỡ!
Xót xa buồn . . . em khóc giữa ngày vui!
Tội nghiệp quê hương!
    Tội nghiệp em tôi… !
          Trần Quốc Bảo
Con Chiến Sĩ Tù “Cải Tạo”

Con Chiến Sĩ Tù “Cải Tạo”
Em ơi hãy ngủ giấc dài,
Để chị cố gắng làm bài cho xong.
Mẹ còn đi bán hàng rong,
Ba còn bị khốn khổ, trong lao tù!
Nhà mình Cộng sản tịch thu,
Chúng mình con ngụy, kẻ thù nhân dân!
Đảng là một lũ bất nhân,
Gia đình mình chịu muôn phần khổ đau!

Vùng kinh tế mới, là đâu?
Đuổi mình lên đó!… hại nhau đường cùng!
Mẹ giờ đi bán hàng rong,
Vẫn mong chị phải cố công học hành!

Mẹ tần tảo, mẹ để dành…
Một mai mẹ dẫn chúng mình thăm ba.
Em ngoan, em ngủ yên nha!
Bánh ngon, chị sẵn dành quà cho em!
             Trần Quốc Bảo
Con Xin Hôn Mẹ  
              
Con quí trọng vết nhăn trên mặt Mẹ,
Lớp da chập chùng như sóng đại dương!
Ấp ủ muôn trùng, lòng Mẹ yêu thương,
Muôn trùng hi sinh! – Muôn trùng đau đớn!
 
Để con sinh ra, để con khôn lớn.
Để hôm nay, con hiện diện giữa đời.
Me dạy con sống trọn đạo với Trời!
Và yêu người, như chính mình ta vậy.
 
Con không bao giờ quên lời Mẹ dạy,
Yêu Quê hương, yêu Tổ Quốc, giống nòi.
Mẹ đã dạy con: Thất bại mỉm cười…
Vịn lời Mẹ mà đứng lên can đảm!
 
Lời Mẹ dạy con: Thành công điềm đạm,
Mở rộng vòng tay giúp đỡ tha nhân.
Mẹ đã về Trời, xa cõi trầm luân…
Con vẫn yêu Mẹ như xưa còn bé.
 
Vì trong tim con, đậm hình bóng Mẹ!
Kỷ niệm tràn đầy như sóng đại dương.
Lòng Mẹ dạt dào, biển cả yêu thương.
Con xin hôn lớp nhăn trên mặt Mẹ!
             Trần Quốc Bảo
Lời Nguyện Cầu Cho Texas
 
Ngày July 4th  vừa rồi,
Pháo bông nở bốn phương trời như hoa,
Niềm vui Quốc Khánh chan hòa!
Ai ngờ lũ lụt, xảy ra kinh hoàng !!!
 
Texas mưa bão tan hoang,
Kerrville phút chốc, tiêu tan cửa nhà!
Sông Guadalupe hiền hòa,
Nước dâng khẩn cấp, tạo ra sóng thần!
 
Cảnh nhìn, đau đớn trăm phần!
Cửa nhà xe cộ, đều lần lượt trôi,
Mưa như thác đổ… than ôi!
Tai họa khẩn cấp khắp nơi, ai dè,
 
Cuốn trôi Camp Mystic trại hè.
Trẻ em la hét, tiếng nghe rụng rời!
Bao nhiêu em gái chết trôi!
Bao nhiêu mất tích, ai người biết đây… ?
 
Đôi ba em bé số may,
Ôm cây trôi dạt, mà nay sống còn.
Mẹ cha tìm lại được con,
Chao ôi!… dào dạt tâm hồn niềm vui!
 
Còn bao nhiêu Bé, số xui,
Xác thân giờ biết nổi trôi phương nào (!)… ?
Mẹ cha ruột cắt, gan bào!
Mắt trào huyết lệ xiết bao cho vừa!
 
Lạy Trời, cho dứt cơn mưa,
Xin cho thời tiết, sớm trưa an bình.
Lậy Trời, cứu độ Vong Linh,
Đưa hồn oan tử vãng sinh về trời!
 
Hồng ân, trải xuống khắp nơi…
Cho miền Texas, trọn đời bình yên.
          Trần Quốc Bảo
               
 Dân Ông Tạ 
                        Thơ Trần Quốc Bảo

        Dân Ông Tạ
 
Nhà tôi xưa, ở Ngã Ba Ông Tạ,
Khu nổi tiếng: bún chả, mộc tồn,
Cứ mỗi xế chiểu, ngả bóng hoàng hôn,
Cả khu vực, thơm lừng mùi thịt nướng!
Món dồi mộc tồn, ngon không tưởng tượng!
Dân Á Châu, đâu có kỵ cây còn,
Gà, cá, cầy, bò…  đều cũng là “con”,
Chẳng phân biệt, hễ ngon là xực ráo!  
Khu Ông Tạ, có anh em Sơn Đảo,
Những tay du đãng khét tiếng yêng hùng!
Được cái… làm ăn thì họ đổi vùng,
Nên Ông Tạ, Bảy Hiền, yên bình êm ả.
 
Văn nghệ sĩ vùng Ngã Ba Ông Tạ,
Nhiều thật nhiều, mà  danh cũng lừng danh!
Thứ nhất Hoàng Xuân Việt, học giả lão thành,
Nhà ngôn ngữ học, cũng một nhà giáo dục!
Với 373 tác phẩm, thuộc nhiều lãnh vực,
Sở học uyên thâm, rất mực hiền lành,           
 
Kế đến Hoàng Hải Thủy, Võ Hà Anh,
Và Dung Sài Gòn, văn chương lãng mạn.
Rồi nhà văn MC. Nguyễn Ngọc Ngạn,
Đưa văn hóa vào chương trình Thúy Nga.
Viết bay bướm, có Lê Nguyễn Hương Trà,
Và Đỗ Trung Quân,  văn tài bất hủ!
Chu Vương Miện, Ngô Hải Triều, Nguyên Vũ,
Đặc biệt Lê Tất Điều, Cù Mai Công (*)
Phạm Thiên Thư dòng lục bát phiêu bồng,
Nét mực thăng hoa như thần phù thánh giáng!    
 
Nhạc sĩ nỗi danh, thì Nguyễn Văn Đông, Văn Giảng,
Nguyễn Đình Toàn, Ngọc Trọng, Trịnh Nam Sơn,
Nét cọ thần kỳ, khó họa sĩ nào hơn!
Có Bùi Đức Lân, Nguyễn Văn Vinh, họa sĩ Ớt,
Danh nhân khu Ông Tạ, kể không thêm bớt,
Tuy nhiên, có thể cũng quên sót đôi ba.
Bởi vì tôi, nay tuổi tác đã già,
Nếu lú lẫn, xin hữu bằng thứ lỗi!  
   

Trần Quốc Bảo & Trần Văn Trạch
 
Còn hai Vị, không thể không nhắc tới:
Quái kiệt Trần Văn Trạch, nhà gần nhà tôi,
Và Chủ nhiệm báo Xây Dựng, đường Mai Khôi.
Cha Nguyễn Quang Lãm, bút danh Thiên Hổ”,
Cha Lãm là bạn học với tôi thuở nhỏ,
Rồi sau này, tôi viết báo cho Ngài.
Không tiền nhuận bút, chỉ nhậu lai rai,
Mỗi lần phát báo, kẹp vài chai rượu lễ!
 
Ngã Ba Ông Tạ còn nhiều chuyện đáng kể…
Nhưng đã dài dòng, xin tạm ngắt nơi đây.
Gặp ngày rảnh rang, lại sẽ tiếp tục ngay,
Cảm khái viết, vì tôi: Dân Ông Tạ! 
   
                  Trần Quốc Bảo
  Nỗi Đau Đứt Ruột
 
Ôi cay đắng! Trước nỗi đau thất trận!
Nước mất, nhà tan, bầm dập Quê tôi!
Tổ Quốc chìm vào đêm đen u hận,
Biết bao dân lành, bỏ xác ngoài khơi!
 
Rất đau đớn! Không ngờ mình bại trận!
Tiếp liệu đã ngưng! súng hết đạn rồi !!!
Anh bạn Đồng Minh, lương tâm táng tận,
Cúp ngang viện trợ, ngoảnh mặt bỏ rơi! 
 
Thật đứt ruột! Bỗng thấy mình thua trận!
Đồng đội, anh em lũ lượt vào tù!
Biết bao Liệt sĩ Anh hùng tự vẫn.
Vết thương này, ghi Lịch sử ngàn thu!
 
Qúa đỗi bàng hoàng… Buông súng, vỡ trận!
Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng,
Quân Cán Chính đã vô cùng căm phẫn!
Trừng mắt nhìn…Bọn mũ cối nghênh ngang!
  
Chuyện Miền Nam thua… nhiều người bình luận,
Lỗi tại Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Chúng tôi cúi đầu, chúng tôi chấp nhận,
Nói năng chi, giữa thế giới mù lòa!

Nào ai biết rằng. sự thật phản diện,
Chuyện thắng thua, quyết định tại DC.
Quốc Hội Hoa Kỳ theo phe Phản chiến,
Chịu thua ngay trên bàn Hội nghị Paris!
 
Mỹ coi Việt Nam, như là “con chốt”,
Thế cờ cần bỏ…thì bỏ như không!
Chuyện “thí chốt”, tính từ Bảy mươi, Bảy mốt (1970-1971)
Khi Kissinger bí mật gặp Mao Trạch Đông (*)
 
Những Quân-Cán-Chính, Miền Nam Nước Việt,
Lấy thân mình, ngăn Cộng Sản Bắc Phương!
Đã chiến đấu, dưới Cờ Vàng quyết liệt!
Vẫn tự hào!… Dù kết quả bi thương!

Cuộc thắng bại, không ở nơi tiền tuyến,
Mà âm thầm. quyết định tại hậu phương.
Rồi…Khốn nan ! – Bôi đen mọi chuyện!
Bởi những tên hèn…  Chính trị bất lương!
 
Nói thẳng một lần, nỗi buồn quá khứ!        
Những chuyện xưa –  nay giải mã tỏ tường.
Hãy trả “Sự Thật” lại cho “Lịch sử”.
Chuyện bây giờ là: “Dựng lại Quê Hương” !!!
      Trần Quốc Bảo
 Richmond, Virginia
   
(*)  Kính mời Qúi Thân Hữu xem thêm Youtube -Giáo sư Stephen B. Young nói về Kissinger :
   Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua, do sự phản bội của  Kissinger?
https://youtube.com/watch?v=l-RmEHis7cE&si=stfgLP5YyYK6a6bx
 
Giáo sư Stephen B. Young, tác giả cuốn sách ‘Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War’ (Sự phản bội của Kissinger: Mỹ đã thua Chiến tranh Việt Nam như thế nào) cho rằng nếu không có hiệp định Paris được ký năm 1973, Hà Nội không thắng được miền Nam Việt Nam. Theo ông, “sự phản bội” của Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Richard Nixon (và sau đó là Tổng thống Gerald Ford) từ 1969 đến 1975, Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Tác giả Stephen B. Young chia sẻ với BBC những góc nhìn, các phân tích và ký ức về sự sụp đổ của Sài Gòn 50 năm trước.
Truy cập website: https://www.bbc.com/vietnamese # BBCNewsTiengViet #ChientranhVietNam #SaiGonsupdo #HenryKissinger
Bái Biệt Đức Thánh Cha Phanxicô
                         
Giáo Hoàng Phanxicô đã rời trần thế!
Ngài ra đi, trong ánh sáng Phục Sinh,
Về cùng Thiên Chúa, hưởng phúc an bình,
Sau mười hai năm làm Tông Đồ Cả.
 
Mình Thánh Chúa Kitô và ngôi Sao lạ,
Hiện trên huy hiệu Triều đại Ngài.
“Cảm thương và Lựa chọn” Thánh ý “Ngôi Lời”.
Tất cả cho người nghèo và chân lý!
   Miserando atque Eligendo : Cảm thương và Lựa chọn
 
Bản thân Ngài, vốn khiêm nhường hiền sĩ,
Mở rộng cánh cửa Giáo hội cảm thương!
Nặng mối quan tâm về khí hậu môi trường,
Ao ước hiệp hành, dung hòa đối thoại.
 
Đường mục vụ, Ngài chủ trương hoán cải,
Nhẹ phần nghi thức, chú trọng tâm linh!
Vị Giáo Hoàng đến từ Châu Mỹ La-tinh,
Được cả thế giới tôn vinh ngưỡng mộ!

Chúng tôi, người Việt mất quê cha đất tổ!
Yêu kính Ngài, tràn tâm thức chẳng phai.
Bởi Quốc Kỳ Việt Nam, Ngài khoác trên vai!
Đi giữa Quảng trường Thánh Phêrô đông đảo.
 
Ôi!… Giữa dòng sử Việt, u buồn sầu não,
Giáo Hoàng Phanxicô, đã mạnh bạo vinh danh!
Chắp hai tay, tôi nước mắt long lanh…
Thành kính biệt Đức Thánh Cha về Nước Chúa!
         Phụng bái !!!  Amen
           Trần Quốc Bảo
Nét Sử Vàng 
    “21 Lê Lai – 22 Lê Lợi”   
                              Thơ Trần Quốc Bảo  
         Nét Sử Vàng 
“21 Lê Lai – 22 Lê Lợi”   
 
Dòng Sử Việt sáu trăm năm về trước,
Khi Nước ta còn lệ thuộc nước Tầu.
Có điền chủ miền Thanh Hóa rất giầu,
Thường cứu giúp kẻ nghèo hèn cơ cực.  

Ai nấy xa gần, một lòng kính phục,
Ngài, tên là Lê Lợi, đất Lam Sơn.
Thấy giặc tàn ác,  rất đỗi căm hờn!
Quyết bày tỏ chí hào hùng quật khởi.  
 
Bèn tự xưng Bình Định Vương Lê Lợi!
Truyền Hịch khắp nơi, kể tội quân Minh. 
Rồi dấy binh ở tại núi Chí Linh!
Dân nức lòng hưởng ứng lời hiệu triệu.   
 
Các tướng tài như Lê Thạch, Lê Liễu,
Rèn luyện hùng binh, chiến thuật tinh vi.
Trận đầu xuất quân, đại thắng Mã Kỳ!
Trận kế tiếp, giết Nguyễn Sào, tướng giặc!  
 
Tiếng tăm vang lừng, từ Nam chí Bắc!
Khiến quân Tầu bị nhục nhã, hoảng kinh.
Chúng bèn kéo quân vây kín Chí Linh!
Quyết bắt sống Bình Định Vương Lê Lợi.      
 
Trong thế nguy, Vương bèn lên tiếng hỏi:
– “Hỡi chư tướng, ai dám noi gương xưa?
Làm Kỷ Tín, liều thân giả dạng vua,
Cứu Hán Cao Tổ thoát vòng vây khốn?”   
 
Vương vừa dứt lời; Lê Lai từ tốn,
Qùi gối thưa: – “Tiểu tướng nguyện hi sinh!”
Rồi nhận áo bào, lên voi xuất binh!
Xông ra trận, để giặc Minh bắt giết!  
 
Nhờ đó, Lê Lợi thoát vòng xây xiết,
Tám năm sau, cuộc khởi nghĩa  thành công!  
Dẹp tan giặc Minh, bình trị non sông,
Lê Lợi lên ngôi: “Vua Lê Thái Tổ” (*)
 
Ngài là vị Vua anh minh đức độ.
Chăm lo việc Nước, gần dân, thương dân.
Đặc biệt Ngài hằng ghi nhớ trọng ân,
Thuở trước Lê Lai xả thân cứu Chúa!   
 
Ngài ví như, được tái sinh lần nữa,
Trọng Lê Lai, ngang phụ mẫu sinh thành!
Nên di chúc đã truyền lại rành rành:
-“Húy nhật, phải giỗ Lê Lai trước Trẫm!”    
 
Thái Tổ băng hà ngày 22 tháng 8,
Toàn con dân đã chẳng dám quên lời.
Công Ngài cứu Nước, gương sáng ngời ngời!
Lòng Ngài ân nghĩa, đức cao vời vợi !   
 
“Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”
Hậu thế hân hoan gợi nét Sử Vàng! 
 
          Trần Quốc Bảo
(*) -Vua Lê Thái Tổ, Đấng Anh Hùng áo vải Nước Đại Việt, tên Ngài là Lê Lợi, người làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, gia đình dòng dõi chuyên nghề canh nông –  Thuở ấy, quân Nhà Minh (giặc Tầu) sang xâm lấn Nước ta. Lê Lợi kêu gọi toàn dân khởi nghĩa, vùng lên đánh đuổi quân Minh, suốt 10 năm gian khổ, từ năm Mậu Tuất (1418) đến năm Đinh Mùi (1428) – Dẹp tan giặc Tầu, Ngài lên ngôi Vua, trị vì 6 năm (1428-1433). Đặt quốc hiệu là Đại Việt.
Lê Thái Tổ là một Vị Vua Tài cao Đức trọng, Ngài có tài cao dụng binh và có lòng đức độ an dân trị quốc. Ngài băng hà ngày 22 tháng 8 năm Nhâm Tý (1433)
TÌNH NON NƯỚC CỦA TẢN ĐÀ
             Khảo luận Văn học    Trần Quốc Bảo  
                                                               
          Người cùng thời với Tản Đà, cũng như lớp hậu sinh, đã đề cập đến Ông khá nhiều, qua những: Thi Văn Tuyển tập , Phê bình Văn học, bình giảng. luận văn, cũng như trong các buổi văn đàm v.v… những phẩm bình gạn loc của một nền văn học suốt chiều dài thế kỷ đã xác định giá trị tuyệt vời của thi ca Tản Đà, đứng hàng đầu, lớp các Nhà thơ tiền bán thế kỷ 20 và luôn cả nhiều thập niên sau nữa.
 
         Sách báo viết về Tản Đà, bàn đến những áng thơ xuất thần của Tiên Sinh, những nét đặc thù như: cái say, cái sầu, cái mộng và đặc biệt là cái ngông của Tiên sinh; có Học Gỉả phân tích cặn kẽ về bút pháp trong thơ văn Tản Đà, về nghệ thuật ca trù và sự tài tình dịch thuật thơ từ Hán tự qua tiếng Việt. Lại có Vị đề cập tới cái lý tưởng cao vời, suốt đời Tiên sinh đeo đuổi mà cho đến ngày lià đời vẫn chưa thực hiện được như lòng mong ước, đó là Tiên Sinh muốn đề xuất, quảng bá và phổ động triết thuyết Thiên Lương cho bàn dân thiên hạ, tưạ như việc truyền bá tư tưởng hiền nhân quân tử và thuyết Trung dung của Đức Khổng Tử vậy.
          Vâng, đã có nhiều nhận xét đa dạng sâu sắc về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nhưng dường như ít ai để ý tới một điểm đặc biệt là Lòng yêu Quê Hương Tổ Quốc của Tản Đà, đã được dàn trải thật nhiều, thật rõ ràng, nếu không nói là tràn ngập đến lộ liễu trong Thơ của Tiên Sinh.
 
          Bài viết này không đi vào lãnh vực luận văn hay bình thơ, mà chỉ hạn chế, trong khuôn khổ đề tài: “Minh chứng về Tình Non Nước rất sâu đậm trong thơ Tản Đà“,
          Tại sao không nói thẳng, nói trắng ra là Lòng ái quốc, hay Tình yêu Tổ Quốc Quê Hương, mà lại rằng: “Tình Non Nước của Tản Đà”, có gì phải che dấu tránh né chăng?
 – Vâng, có như vậy! xem lại tiểu sử Tản Đà, chúng ta thấy niên biểu thời ấy ở vào giai đoạn đầu lúc Nước ta bị Pháp cai trị, thời điểm bấy giờ mà in lên báo trương, hoặc nhỏ to xì xầm đến Lòng ái quốc. Đảng cách mệnh hay Phong trào khởi nghĩa v.v… là điều cấm kỵ , gông cùm tù ngục, tai họa lù lù ngay sau gáy.
 
 Mở lại đôi dòng sử u buồn trăm năm trước. Nước Pháp khởi sự cuộc viễn chinh xâm lăng Việt Nam kể từ năm 1858 (Mậu ngọ, năm Tự Đức thứ 11) 9 năm sau (1867) toàn bộ đất Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp và 17 năm kế tiếp, ngày mồng 6 tháng 6 năm 1884, Triều đình Huế ký Hòa Ước Giáp Thân (quen gọi là Hoà Ước Patenôtre) công nhận quyền Pháp bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam.
          Nước ta rơi vào vòng nô lệ 4 năm thì Nguyễn Khắc Hiếu ra đời, Ông sinh năm Mậu Tý,1888, tại làng Khê Thượng, Huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, cách Hà Nội 44 cây số về hướng Tây Bắc, quê hương Ông, phong cảnh đẹp hùng vĩ, phía đông-nam Huyện Bất Bạt có Núi Ba Vì, tức là Tản Viên cao 1280 thước, ta có câu ca dao: Nhất cao là núi Tản Viên, Thanh nhàn vô sự là tiên trên trần. (Tản Viên trông xa như hình cánh phụng, nên còn gọi là Phượng Hoàng Sơn) , Sông Đà (còn gọi là Hắc Giang) bao bọc suốt dải bình nguyên phía Tây Bất Bạt từ bắc xuống nam làm ranh giới thiên nhiên ngăn cách với Tỉnh Phú Thọ. Lòng yêu Quê hương nảy sinh trong lòng Nguyễn khắc Hiếu ngay từ khởi sự cầm bút, Ông lấy bút hiệu Tản Đà hẳn là ý muốn gắn liền thân thế sự nghiệp vào lòng Quê hương vậy.
………..
Văn chương thời nôm na
Thú chơi có sơn hà
Ba Vì ở trước mặt
Hắc Giang bên cạnh nhà:
                     (Tản Đà Tự Thuật)
…..
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
                       (Ngày Xuân rượu với Thơ)
………
Sông Đà núi Tản đúc nên ai
Trần thế xưa nay được mấy người
Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một cành mai
                                   (Thơ Tự Vịnh)
………..
Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút Thánh câu Thần sớm vãi vung
                                    (Thơ Tự Trào)
 Một tâm hồn nặng lòng với quê cha đất tổ, một bút thơ tài hoa như Tản Đà, mà thoạt sinh ra đã là dân mất nước, ông chào đời với tiếng khóc quê hương, nỗi niềm sầu muộn ấy đeo đẳng suốt cả cuộc đời thì việc đem tâm sự gửi vào thơ, ắt là chuyện đương nhiên, Lại nữa chúng ta biết, Tản Đà sinh nhằm buổi giao thời, cuối Thế kỷ 19, qua Thế kỷ 20, lúc mà ách nô lệ ngoại bang vừa chụp xuống đầu dân tộc ta, lại cũng là lúc nền phong hóa cũ của ta tiếp cận với nền văn minh Tây phương, chữ Quốc ngữ được dùng cấp kỳ thay thế chữ nôm và chữ nho.
Mười mấy năm trời ngọn bút lông
Thảnh thơi chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không ?
         
Sự kiện tống cựu nghinh tân, thay cũ đổi mới,thuở ấy cũng tác động không ít vào nỗi sầu vọng cổ hoài hương của Tản Đà. Hơn nữa cùng trong thế hệ Tản Đà, sinh trước hoặc sau một vài thập niên, có những trang anh hùng kiệt sĩ, như Phan Bội Châu (1867), Nguyễn Thượng Hiền (1868), Phan Chu Trinh (1872), Huỳnh Thúc Kháng (1875) , Nguyễn Đình Chiểu, Khái Hưng (1898) Nguyễn Thái Học, Trương Vĩnh Ký, Ngô đình Diệm (1901), Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1907) … tấm lòng yêu Nước thương dân của các Nhà Chí Sĩ đó như một chất xúc tác ngấm ngầm nhưng cực kỳ mạnh mẽ lan tràn trong tâm hồn người dân Việt vong quốc lúc bấy giờ. Cao điểm của sự kiện này là vụ Nguyễn Thái Học và 12 Đồng Chí bị Pháp chém tại Yên Bái ngày 17 tháng 7 năm 1930. (9 năm sau,Tản Đà qua đời ngày 17 tháng 6 năm 1939 tại Hà Nội)
 
 Thi sĩ Quách Tấn sinh năm 1910, trẻ tuổi hơn Tản Đà 1 giáp, khi in tập thơ “Một Tấm Lòng” (1939) đã được Tản Đà đề Tựa, có viết một đoản văn hồi ký nói về Tản Đà, đăng trong tạp chí Văn xuất bản tại Saigon năm 1971, Ông kể rằng – Năm 1927, Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập, lấy Dân Tộc, Dân Quyền, Dân Sinh , làm chủ nghĩa; lấy Độc Lập, Dân Chủ, Phú Cường làm phương châm. Tuy còn đương trong thời kỳ bí mật, nhưng uy danh của Vị Lãnh Tụ , hùng tâm hùng khí của của các cấp Chỉ Huy, lòng nhiệt thành và đức hi sinh cao cả của đa số Đồng Chí, đã làm cho bọn cường quyền vừa sợ vừa kính, hàng Sĩ phu yêu Nước qui tâm. Để gây ảnh hưởng sâu rộng, Đảng quyết định dùng Báo chí làm cơ quan tranh đấu và tuyên truyền. Quyết định ra nhằm lúc An Nam Tạp Chí tạm đình bản vì thiếu hụt tài chánh. Ban Chấp Hành Trung Ương bèn ủy quyền cho Lãnh Tụ Nguyễn Thái Học đến thương lượng cùng Tản Đà Tiên sinh. – Tản Đà Tiên sinh là một Nhà Thơ yêu Tổ Quốc, yêu văn chương và lập chí đem văn chương đền ơn Tổ Quốc từ lúc còn trẻ:
 Này vẫn bác Tản Đà ngày trước
 Thuở xuân xanh thề ước non sông
 Trải bao xuân hạ thu đông
 Càng phơ tóc bạc cho lòng càng son
                           (Xuân cảm năm Ất Hợi)
Lòng Tiên Sinh luôn ấp ủ giấc mộng “Bồi lại bức dư đồ Việt Nam”,  mà:
 Buổi trước ông cha mua để lại
 Ngày nay con cháu lấy làm chơi
                          (Vịnh Bức Dư Đồ Rách)
Cho nên khi gặp Lãnh Tụ Nguyễn Thái Học, Tiên sinh mừng khôn xiết nỗi mừng
 Rồng Tiên cùng họ từ xưa
 Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau
                                            (Chơi Huế)
 
         Trong các tài liệu về Tản Đà, chỉ duy có bài của Quách Tấn nhắc đến sự kiện đó, chúng ta không đánh giá sự khả tín của chuyện ký, nhưng từ đó chúng ta mở rộng thêm nhận xét về những ẩn ý chất chứa trong thơ ái quốc của Tản Đà. Xin hãy đọc bài thơ bất hủ:
Vịnh Bức Dư Đồ Rách
 
         Nọ bức dư đồ thử đứng coi
          Sông sông núi núi khéo bia cười
          Biết bao lúc mới công vờn vẽ
          Sao đến bây giờ rách tả tơi ?
          Ấy trước ông cha mua để lại
          Mà sau con cháu lấy làm chơi !
          Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
          Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
 
         Ở vào khởi điểm của cuộc mất Nước, toàn dân cúi đầu nhận chịu ách nô lệ, bài thơ trên đây của Tản Đà, nghĩa đen mộc mạc chỉ là nỗi lòng cảm động khi đứng nhìn tấm bản đồ treo trên tường bị rách nát, nhưng ý tại ngôn ngoại, cái tâm sự ẩn dụ trong thơ lồ lộ ra quá rõ rệt, từng câu, từng chữ, là tiếng thở than vong quốc thật não nùng ai oán, là lời thống thiết nhắn gọi lớp Sĩ phu hãy đứng lên cứu nguy Tổ Quốc, hãy ra tay tài bồi mảnh Giang sơn gấm vóc của Tổ tiên đang bị nạn ngoại xâm.
          Lời kêu gọi thúc bách “Hãy mau tô bồi hàn gắn lại bức dư đồ Việt Nam rách nát tả tơi” chẳng phải chỉ dóng lên một lần rồi thôi, mà cứ mỗi khi thuận câu, hợp vần, Tản Đà lại nhắc tới nhắc lui:
…..
Tri âm ai đó , mau hồ giấy
Kẻo đến dư đồ lại tả tơi !
                    (Lo Thời Khí)
…….
Biết bao ra Bắc vào Nam
Bức dư đồ rách đã cam khó lòng !
                                      (Xuân Tứ)
…….
Dư đồ còn đó chưa phai
Còn non, còn nước, còn người nước non.
                 (Qua cầu Hàm Rồng cảm tác)
……..
Dám quên “Đông Pháp” người tri kỷ ?
Riêng nhớ  “An Nam” bức địa đồ
         (Gửi Tòa soạn Đông Pháp Thời Báo)
…….
Bức dư đồ rách không bồi
Báo “An Nam” nghỉ biết đời nào ra
                       (Cười bác Mai Lâm)
Có bài thơ nhắc đi nhắc lại “Bức dư đồ” đến hai lần
…….
Khóc ai, riêng cũng mừng cho
An Nam Tạp Chí, dư đồ còn đây
…….
Hơn nhau một bức dư đồ
Khí thiêng sông núi hộ phù nước non
             (An Nam TC ra lần thứ năm)
 
Còn nhiều nữa, nhưng nội những câu thơ lược trích trên đây, cũng đủ dãi tỏ tấm lòng ái quốc nhiệt tình của Nhà Thơ núi Tản sông Đà, và qua đó Tiên sinh đã gửi đến Quốc dân một thông điệp khá rõ ràng.
 Dùng biểu tượng “Bức dư đồ rách” để nói về Tổ Quốc suy vong, Sông núi bị kẻ xâm lăng cai trị ; đó là “viết” phải “lách” phải tránh né để thoát khỏi lưỡi kéo kiểm duyệt của Nhà Cầm Quyền, nhất là để che mắt bọn Mật Thám Pháp và bè lũ tay sai. Cũng vậy, thay vì khơi động “Lòng Ái Quốc”: Tản Đà đã viết bài thơ
Thề Non Nước
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non
Nhớ lời “Nguyện nước thề non”
Nươc đi chưa lại, non còn đứng trông
Non cao, những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ, chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã dầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non Cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nươc đi ra bể, lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nươc kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
Lời thề non nước là lời thề trươc Bàn Thờ Tổ Quốc, mà trong tình huống Tổ Quốc lâm nguy thì thề hứa điều gì ? Tiên sinh không nói ra, nhưng không nói mà ai ai cũng đều biết cả . Bút thơ Tản Đà tuyệt diệu là ở chỗ đó. Trong bài Xuân Cảm, Tiên sinh hạ bút:
Non Sông thề với hai vai
Quyết đem bút sắt mà mài long son
                                       (Xuân Cảm)
Bút sắt mài lòng son mà viết câu thề, thì đó là “huyết thệ” thề bằng máu và tất nhiên là lời thề sắt son, trung thành nguyện đem cả hai vai mà gánh vác sơn hà. Nhưng tiếc rằng khi đất nước ở vào lúc thế cùng vận bĩ nên cái chí cả, mộng lớn của Tản Đà đã chẳng thành tựu được, Tiên sinh xót xa thổ lộ can tràng:
– Năm nay tuổi đã bốn mươi hai
  Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai
  Khắp bốn phương trời không thước đất
  Địa cầu những muốn ghé bên vai
– Năm nay tuổi đã bốn mươi ba
 Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta
 Lo nước, lo nhà, lo thế giới
 Còn lo thêm nợ, nghĩ chưa ra
          (Tân Xuân – Khai bút)
 
Đọc những câu tâm sự trên ta thấy khác nào nỗi lòng Đặng Dung qua bài “Thuật Hoài
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma!
 
Bảndịch:
 
Thế cuộc đa đoan luống tuổi già
Say ca giữa đất trời bao la
Gặp thời đê tiện lên vênh váo
Lỡ vận anh hùng ngậm xót xa
Phò nước đã toan xoay địa trục
Gột bào chẳng lối tới thiên hà
Chưa đền nợ nước đầu nay bạc
Mài kiếm nhiều đêm trăng với ta
                        (Trần Quốc Bảo)
 
Sầu vong quốc phải chăng là mối sầu vạn cổ? Tản Đà cho rằng mình sinh bất phùng thời, nỗi buồn vì thân thế quẫn bách, cô đơn cộng với niềm đau nhục của quê hương đất nước, ông bi phẫn thốt lên:
Biết bao ra Bắc vào Nam
Bức dư đồ rách đã cam khó lòng
Văn chương chút nghĩa đèo bòng
Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao!
          (Xuân Tứ)
Và cuối cùng Tiên sinh cam nhận số phận hẩm hiu, đành thúc thủ trong thất bại cay đắng
……….
Quản chi sông rộng doành khơi
Buồm không thuận gió ai ơi cũng đành !
               (Thư của người nhà quê)
 
Cả cuộc đời của Tản Đà, dù mê đắm trong văn thơ chữ nghĩa, dù say sưa túy lúy càn khôn, dù ngông nghênh xem mục hạ vô nhân, coi trời bằng vung, nhưng trên hết cả, chói lọi hơn hết cả vẫn là Tình Non Nước, là cái tấm lòng ái quốc chân thành trung kiên thẳng băng mực tầu, của một sĩ phu.
 Lời tâm huyết sau đây được coi như câu dối dăng tuyệt mệnh của Tiên Sinh:
Tấm riêng riêng những thẹn mình
Giữa đường buông dứt gánh tình như không
Gập tờ giấy niêm phong hạt lệ
Nhờ cánh tem bay đệ cung mây
Ái ân thôi có ngần này
Thề nguyền non nước đợi ngày tái sinh
 
Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại đã kết luận phê bình về Tản Đà như sau: “Thơ của Ông dản dị, trong sáng, lại diễn tả tâm hồn Việt Nam đủ mọi vẻ, mọi mầu; nên thơ Ông, quyết nhiên sẽ là thơ bất hủ, và có lẽ trên Thi Đàn gần đây, Ông đứng vào bậc nhất.” 
Vũ Ngọc Phan nhận xét rất đúng nhưng dường như vẫn thiếu sót khi không đề cập đến tấm lòng yêu Nước thiết tha của Tản Đà chất chứa đầy ắp trong khối thi ca đồ sộ Ông để lại cho hậu thế.
 Trong cuộc sống đầy bận bịu, dành chút thời gian mở lại trang Thơ Tản Đà Vịnh Bức Dư Đồ rách, và ngâm nga đôi câu Thề Non Nước, bỗng thấy sao mà hợp cảnh hợp tình quá! Dường như đang sống cùng trong niên biểu với Tản Đà, hoặc giả Tiên sinh đang còn cầm bút làm thơ ở nơi đâu đó quanh ta.
Xin thành kính dâng lời tri ân Thi Hào Tiền Bối, khoảng một thế kỷ trước đây đã viết lên những lời thơ tâm sự xót xa để còn rung động hậu sinh đến ngày hôm nay.
                                                                                   Trần Quốc Bảo                                           
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
–  Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim
 – Nhà Văn Hiện Đại – Vũ Ngọc Phan
–  Các Sách của Tản Đà (Vận Văn,Tùng Văn, Văn Tập I & II )
–  Dân Tôi – Đông Tiến
– Thơ Tuyển Dịch – Đào Hữu Dương
– Văn Xã 2 (3 &4-1990)
– Việt Thi – Trần Trọng Kim
 
 BỜM VÀ CUỘI TRONG CON NGƯỜI VIỆT NAM
 Bài khảo luận: của Trần Quốc Bảo                              
 Trong cổ tích Việt Nam, có hai câu chuyện thật dí dỏm đặc sắc, lại mang biểu tượng về bản tính đặc thù của nguời Việt mình. 
   Đó là Chuyện Thằng Bờm và Chuyện Thằng Cuội.
 I. Biểu tuợng Thằng Bờm
Thằng Bờm
: điển hình cho óc thực tế, cho sự hiền lành chất phác của người dân quê. Mọi sinh hoạt lấy nông thôn làm gốc, mọi ước vọng lấy no bụng làm đầu. Hạnh phúc thật của đời người là sự an bình nhàn hạ, cơm no áo ấm “Nằm khểnh ăn no, Quạt mo phì phạch”. Chẳng cầu mong hão huyền, không ham muốn viển vông. Bản chất thuần phác, thiết thực chín chắn, tính tình mộc mạc đơn sơ, thích an hòa và “hưởng nhàn”, nhưng lại có ý chí kiên trì sắt đá, nhẫn nại và bền lòng
Chuyện Thằng Bờm chứa đựng một triết lý nhân bản thực tiễn. Biểu lộ một nhân sinh quan an nhiên tự tại của người Việt. Chính đó là chủ đạo dân tộc trong việc dựng nuớc và giữ nước.  Chuyện chỉ vỏn vẹn 10 câu thơ lục bát mà gói trọn một quan niệm sống cổ nhân:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi – Bờm cười !
                 (Tục ngữ Phong dao- Nguyễn Văn Ngọc)
Bờm có cái quạt mo, để lúc mưa che đầu, lúc nắng nôi kiếm gốc cây ngồi thoải mái quạt mát Đổi gì nó cũng không chịu; từ chối ba bò chín trâu, ao sâu cá mè; bè gỗ lim, chim đồi mồi. 
Nhưng khi phú ông gạ đổi nắm xôi thì nó toét miệng ra cười! 
Cười là khoái, hết chổ chê rồi!  Chưa rõ Bờm thuận hay không, nhưng đổi chác vậy là hợp lý, chắc ăn như bắp.  Chứ cái quạt mo mà đem trâu bò, ao cá,. . . ra nhử thì sự vô lý, chênh lệch hiện ra qúa rõ. 
Bờm hiền lành chất phác, nhưng không ngu đến nỗi không hiểu sự việc đó. Biết chừng đâu chỉ là lừa dối. Mà nói cho cùng, cuộc đổi chác giả như thực, thì Bờm vẫn khước từ, vì dại gì bỏ cái hạnh phúc an nhàn (quạt mo), chuốc lấy cái bả lợi danh, cho hao tâm mệt trí.
Phú Ông đem trâu,bò, ao cá, chim mồi ra nhử Bờm, khác gì:
     – Mùi phú qúy nhử làng xa mã
       Bả vinh hoa lừa gã công khanh …(Cung Oán ngâm khúc)
Bờm không cầu xa mã, chẳng màng công danh, nên từ chối cuộc sống phù hoa, ấy là lẽ  tự nhiên. Suy tư và ứng xử chất phác của Bờm nào khác gì tư tưởng của các nhà triết học Tây phương:
Vanitas vanitatum, et omnia vanitas    (Vanité des vanités, tout n’est que vanité.) “Phù hoa nối tiếp phù hoa.  Rồi ra tất cả chỉ là phù vân”
Còn như nắm xôi đáp ứng đúng nhu cầu thiết thực, gãi đúng chỗ ngứa của Bờm nên nó chịu. Hạnh phúc thật của đời sống con người, đơn giản là an nhàn và no ấm. Cho nên “quạt mo” và “nắm xôi” có giá trị tương đương với nhau.
Suy rộng ra, “qụat mo” của  Bờm, chính là “chữ nhàn” , một triết lý sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam ta. Trong văn chương bình dân có rất nhiều câu Ca dao nói đến chữ  “Nhàn” như:
–  Nhất cao là núi Tản Viên – Thanh nhàn vô sự là tiên trên đời
–  Chẳng tham ruộng cả nhà cao – Chỉ mong cuộc sống làm sao an nhàn
–  Cầu chi tiền vạn, bạc ngàn – Chỉ cầu mong được chữ nhàn mà thôi.
“Hưởng nhàn” là ước mơ tuyệt đỉnh, là lạc thú trên đời không gì sánh bằng,  được nhắc đến trong nhiều tác phẩm lớn của Văn học Việt Nam, như:
–  Một ngày trong thú thanh nhàn
Mấy trăm, muôn cảnh nhân hoàn đọ sao . . .(Bích Câu kỳ ngộ)
–  Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời . . .(Cung oán ngâm khúc)
 –  Công danh phú qúy màng chi
Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng! …(Lục Vân TIên)
–  Chữ Nhàn đáng giá muôn chung . . . (Nguyễn Công Trứ)
–  Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách . . . (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
–  Đoạn tống nhất sinh, duy hữu tửu. 
Trần tư bách kế, bất như nhàn . . . (Cao Bá Quát)
Vậy thì “cái Nhàn” đã là “Đạo Sống” của cổ nhân ta,   Và bởi vì : “có thực mới vực được Đạo” cho nên ta không ngạc nhiên nếu Bờm nhận “nắm xôi”. Đổi quạt mo lấy nắm xôi, là nghĩa đen, tượng hình hóa sư việc mà thôi. còn về đường tư tưởng thì “cái nhàn” vẫn ở nguyên vẹn trong tâm trí Bờm, như Nguyễn công Trứ đã luận:
     –  Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn
Cái tài tình của câu chuyện là kết luận: “Bờm cười.” không gật đầu, chẳng trả lời, chỉ cười, vậy thôi! Ai cũng hiêủ nó nghĩ gì, muốn gì. Ôi! Bờm cười, là chính hiệu Việt Nam rồi, còn chệch đằng nào nữa.
       Ngày xưa ông Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) viết trong Đông Dương Tạp Chí (số 22) bảo rằng người Việt mình có một thói lạ là hay cười, thế nào cũng cười, gì cũng cười! Thật đúng qúa vậy. Dù cười mãn nguyện, cười triết lý hay cười ngô nghê, thì thằng Bờm vẫn tượng trưng cho những đức tính tốt của con người Việt Nam.  Phần còn lại là những tính xấu nó nhường cho Cuôị, một thằng hòan toàn đối nghịch với Bờm. 
II.  Biểu tượng Thằng Cuội
Thằng Cuôị là biểu tượng của sự khoác lác, nói dối, đánh lừa, tinh nghịch láu lỉnh, ranh mãnh, khôn vặt.  Ngần ấy thói xấu mà đem gán sống cho con nguời Việt nam, tôi e có vị sẽ nổi sùng.
Nhưng xin hãy bình tâm mà nhìn vào sự thật. Nếu vũ trụ, vạn vật được tạo dựng bởi hai nguyên lý đồng đối, âm và dương; con người là giao điểm của hai thái cực tốt và xấu, thì dân tộc mình có Thằng Bờm, ắt phải có Thằng Cuội.  Chẳng gì qúa đáng!  Chẳng có gì xúc phạm tới lòng ái quốc hoặc tự ái dân tộc của Con Tiên Cháu Rồng cả.
Trong bộ “Việt Nam Sử Lược”, sử gia Trần Trọng Kim có nhận xét như sau:  “về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo tay chân, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học.  Trọng sự học thức, qúi sự lễ phép, mến điều đạo đức; lấy sự nhân, lễ nghĩa, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở.  Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi qủy quyệt và hay bài bác chế nhạo.  Thường thì hay nhút nhát hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.  Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều không kiên nhẫn, hay khoe khoang, và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc.  hay tin ma, tin qủy sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tính tôn giáo nào cả.  Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn”  (nguyên văn, Quyển 1 trang 6 và 7)
Lại trong bộ sách phê bình văn học:  “Nhà Văn hiện đại”, ông Vũ Ngọc Phan cũng viết một câu thẳng thừng như sau:  “Tôi thấy cái câu này của người Tàu bình phẩm người Việt Nam ta thật đúng qúa chừng:  người bé nhỏ mà lại hay đại ngôn!” (nguyên văn, tập 3 trang 533)
Dẫu hai vị học giả khả kính trên đã cả quyết là nguời mình có tật hay nói phét.  Tôi cũng không vơ đũa cả nắm mà rằng mỗi nguời Việt có một Thằng Cuội, nhưng tôi đoan chắc sự dối trá đã ăn rễ sâu vào mọi sinh hoạt của xã hội ta, xin dẫn chứng như sau:
          a) Cuội trong ngôn ngữ:  Ví dụ, gọi cha mẹ là thầy, cậu mợ.  Con cái có tên tuổi đàng hoàng lại kêu là Cu lớn, Cu nhỏ, thằng Chó, Tí Tèo, con Hĩm, đĩ Lớn, đĩ Nhỏ….Ở trong thôn xã:  ông Ba, bà Bảy, toàn là tên Cuội hết cả – Chết thì nói mất (cha mẹ mất sớm) chê mà như khen (rõ khéo chửa!  Đẹp mặt chửa?)  Khen lại như chê (thằng Cu trông dễ ghét chưa!).v.v.. đành rằng có những lý do tạo ra từ ngữ, nhưng phàm đen nói trắng, có nói không.  Vậy là Cuội rồi!  Có khi ta nói quen miệng, nghe quen tai, đời này qua đời khác mà không để ý tới cái cội rễ “ngôn từ Cuội bẩm sinh” đấy thôi!
          b)  Cuội trong phong tục:  Ví dụ những câu chúc tụng rặt một điều quá đáng. (Ví dụ: Vạn tuế, muôn năm, vạn sự như ý …) Câu chửi rủa cũng vậy, cho ăn cái này, của nọ.  Có thật vậy không?  Đến sự mời mọc:  “Mời các cụ xơi cơm!”  Mời dơi mời chuột theo thói quen, chứ các cụ mà xơi thật thì nhà cháu nhịn đói sao?.v.v…  Việc giao tế trong xã hội ta, cuội nhiều lắm.  Người ứng cũng như ngườì đáp đều hiểu là cuội, nhưng đôi bên lấy cái tâm thành mà đối đãi với nhau.  Hóa nên cuội mà tạo được nếp sống đaọ lý, có lễ giáo, cương thường, tôn ti trật tự và có tình yêu thương đằm thắm.
          c)  Cuội trong lịch sử:  Tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước những biểu tượng thiêng liêng của lịch sử:  Con Rồng Cháu Tiên, Bà Mẹ Âu Cơ trăm trứng, mà không gọi đó là cuội.  Nhưng tôi ghi nhận rằng trong toàn bộ Sử Việt, cứ mỗi lần ta đánh thắng quân Tàu, thì liền đó, triều đình lại sai sứ qua triều cống thần phục, là ý làm sao?  Cống thật hay cống cuội?  Chủ ý là: Ông thắng mày, nhưng mày là nước lớn, nên chi “xí cô hồn” cho mấy cái ngà voi để thua, mà hả dạ, đừng sang quấy nhiễu nữa!  Chẳng qua là kiểu ngoại giao cuội để mưu hòa bình mà thôi.
          Đến những chuyện cuội vĩ đại, được coi là quốc kế mưu lược, nào việc gả Huyền  Trân cho Chế Mân đổi lấy Châu Ô, Châu Rí sau Trần Khắc Chung lại qua Chiêm Thành đưa Huyền Trân trở về.  Nào ông Lê Lai giả làm vua Lê Lợi để cứu Chúa.  Cậu bé 10 tuổi giả làm Hoàng Đế Cảnh Thịnh.  Ông Phạm Công Tỵ hóa trang thành vua Quang Trung sang Tàu triều bái vua Càn Long (“Tự hào là người Việt Nam”, của Cao Thế Dung, trang 198)
          Tới đây, tưởng đã đủ để xác định sự hiện diện và tầm quan trọng của thằng Cuội trong con người Việt Nam.  Qủa thực Cuội có một giá trị độc đáo, và có khả năng đắc dụng vô cùng cần thiết về giao tế.  Trong “Tôn Tử Bình Pháp” của Trung Hoa có nguyên một “Thiên Hư Thực” dạy về đặc tính Cuội.  Trong “Binh thư Yếu lược” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng có tới ba chương:  Chiến lược – Hư Thực – Mưư Trí.
          Cuội thật xứng đáng ngang hàng với Bờm, nếu không nói là nó nổi tiếng hơn.                       
Giải oan cho Cuội:
        Bắc thang lên đến cung mây
        Hỏi  sao Cuội phải ấp cây cả đời?
        Cuội nghe thấy hỏi Cuội cười
        Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây!    
 (Ca dao)
Gốc gác của Cuôị là nói dối vì vậy mà trăm dâu đổ đầu tằm, bao nhiêu tội lỗi xấu xa người ta trút hết lên đầu nó. Mới đây, ông Hoàng Quốc Thanh có viết một bài báo nói về Cuội, gán ghép tội nó như Vẹm tức Việt minh cộng sản.  Thật oan cho Cuội quá!  (mới rồi, ông bà Hoàng Quốc Thanh – tức Nhà Thơ Hoàng Cao Các – có tới thăm chúng tôi, sau khi thảo luận đã đồng ý tôi viết vài dòng, giải oan cho Cuội)
Phải công bằng định công luận tội cho Cuội.  Phải ấn định lằn ranh nói dối của nó.  Vượt qúa mức là không phải Cuội, không còn tính chất Cuội nữa.  Cuội chỉ ranh mãnh tinh nghịch nói dối chơi chơi thôi, tuyệt nhiên không làm hại ai.  Chuyện Cuội nói dối Hà Bá lên bờ cho cọp ăn thịt là nó có công diệt trừ một tên ác ôn để cứu sống bầy trâu.  Chuyện giết trâu của chú đãi bạn mục đồng chẳng qua cũng như trừ vào việc chăn trâu suốt đời không công của nó, đến chuyện nói dối thím là chú bị lòi ruột (ruột tượng).  Nói dối chú là thím nấu cơm ở nhà cháy (cơm cháy chứ không phải là nhà cháy) đó là láu cá vặt đánh lừa cho chú thím bị một phen lên ruột, cười chơi – chân tướng thằng Cuội là như vậy.
Cuội khoác lác láu lỉnh chứ không lưu manh , xảo trá, đểu cáng.
Cuội tinh nghịch nói dối chứ không gian xảo, bịp bợm, vô luân.
Cuội đánh lừa ranh mãnh chứ không dã man, ác ôn, côn đồ như cộng sản.
 Người Việt mình có tới 50% bản chất thằng Cuội, đó là những trường hợp chẳng đặng đừng, chấp kinh thì phải tòng quyền, phải nói dối, phải ranh vặt khi cần, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.  Ờ với Bụt mặc áo cà sa, ở với ma mặc áo giấy… là vậy.
Thử hỏi (thiệt tình) người Việt tỵ nạn đến Mỹ, đến Pháp gia nhập quốc tịch xứ sở địa phương, giơ tay thề từ bỏ quốc tịch Việt Nam, là thề thật hay lời thề cá trê chui ống?  Sông có khúc, người có lúc, biết uyển chuyển, gặp thời thế thế thời phải thế, để tự tồn tự tiến, tự lập.  Vậy Cuội là gì?  Phải chăng là con đường tắt an toàn đưa dân tộc đến an sinh cường thịnh.  Phải chăng là hầm hố ẩn núp bom đạn của cuộc đời.
Thử nghĩ thời xa xưa bị Tàu đô hộ, ta bèn dùng chữ Tàu biến cải thành chữ Nôm mà ứng dụng vào thi văn.  Tới khi Tây bảo bộ ta lại lấy luôn La Tinh làm quốc ngữ để văn học phát triển.  Gỉa sử một ngày mai, xong việc diệt cộng hưng quốc, người Việt khắp nơi tấp nập trở về với đầy ắp hành lý là những tinh hoa của 5 châu mà mình “cuội” được thì tương lai nước Việt Nam mình sẽ thay đổi rực rỡ biết chừng nào!
–  Ta không khuyên con cháu làm điều dối trá, ranh mãnh.
–  Chúng ta không vinh danh sự khoác lác sự nói phét. 
         Nhưng ta dậy con cái điều chí nhân, rèn luyện cái tâm chí thành để một mai trên đường đời chúng gặp lúc phải tránh né, phải nói dối thì vẫn giữ được lòng nhân và tâm thành – đó chính là cái tinh thần của thằng Cuội trong xã hội ta vậy.
Thằng Cuội trong văn chương
Chuyện Thằng Bờm chỉ vỏn vẹn có 10 câu Ca dao ghi trên, tôi không tìm thấy một tài liệu nào khác nữa.  Còn Thằng Cuội thì trái lại có địa vị khả ái trong văn đàn.  Trước hết, ở tuổi thơ, nhi đồng rất mến Chú Cuội (gọi là Chú).  Ai trong chúng ta đã chẳng một lần cầm đèn cá chép đi dung giăng dung giẻ mà ca hát hồn nhiên ngây thơ:
Bóng trăng trắng ngà.  Có cây đa to
 Có Thằng Cuội già,  ôm một mối mơ. (Nhạc sĩ Lê Thương)
Rước đèn, ăn bánh Trung Thu, rồi xúm quanh nghe ông bà kể chuyện Hằng Nga, chú Cuội.
Ta thấy người ta vẫn nói rằng
                   Nói rằng Thằng Cuội ở trong trăng
                   Chứa ai không chứa, chứa Thằng Cuội
                   Tôi gớm gan cho chị ả Hằng     (Tú Xương)
Hằng Nga là vị nữ lưu tuyệt mỹ, sắc đẹp nghiêng trời lệch đất.  Cuội là đứa chăn trâu ở dưới trần gian, vợ Cuội một hôm vô ý ” tè” vào gốc cây thần, cây đa bật rễ bay lên trời.  Cuội hốt hoảng bổ vội một lát cuốc vào gốc cây cố sức trì kéo xuống chẳng ngờ cây Đa lôi tuốt nó lên Cung Quảng.  Cuội ở trên đó với Hằng Nga.  Suốt đời, không bao giờ hổn hào bờm xơm với người đẹp.  Nó kính trọng và gọi cô bằng chị. 
Cuội luôn ôm giấc mơ là trở về quê hương dương trần với vợ.  Chỉ một điều đó, thấy Cuội dễ thương quá chừng rồi.  Duy tật nói dối thì lên trời cũng không chừa được.
Chú Cuội ở trên cung trăng
          Vì hay nói dối chị Hằng đuổi đi
          Cuội ngồi Cuội khóc tỉ ti
          Muời lăm tháng tám Cuội đi về trần       
(Ca dao)
Đấy!  lại nói dối nữa rồi!  Ở tít trên cung trăng, làm sao mà đi về trần – trong giai thoại văn chương có câu chuyện vui về Cuội, một bữa Hồ Xuân Hương muợn tiền Chiêu Hổ, Hổ hứa cho muợn 5 quan sau đưa chỉ có 3.  Hồ Xuân Hương bực mình,
mượn tích Cuội mà trách khéo rằng:
Sao nói rằng năm chỉ có ba?
          Trách người quân tử hẹn sai ra!
          Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
          Nhờ hái cho xin mắm lá đa.     
(Hồ Xuân Hương)
Chiêu Hổ ỡm ờ hoạ lại:
          Rằng gián thì năm, quí có ba
          Bởi người thục nữ tính không ra
          Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt
          Cho cả cành đa lẫn củ đa       
(Chiêu Hổ)
Chú thích của Trần Trọng Kim:  “Ngày xưa tiêu tiền có quan gián và quan qúi.  Quan gián có 6 tiền mà quan qúi thì mười tiền.”
Bảo rằng Cuội nổi danh hơn Bờm, thiệt quả không ngoa.  Bởi vì Cuội có một đền thờ hẳn hoi – gọi là “Đền Ông Cuội” – điều đó nói lên sự nhân cách hóa tài tình và óc hài hước cao độ của người Việt Nam
          Đầu làng Ngang có một chỗ lội
          Có đền ông Cuội cao vòi vọi
          Đàn bà đến đấy vén quần lên
          Chỗ thì đến háng, chỗ đến gối
          Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười
          Cái gì trăng trắng như con cúi?
          Đàn bà khép nép đứng liền thưa
          -Con trót hớ hênh, ông xá tội
          -Thôi thôi con có tội chi mà
          Lại đây ông cho giống ông Cuội
          Từ đấy làng Ngang đẻ ra người
          Đẻ ra rặt những thằng nói dối      
(Nguyễn Khuyến)
Bài thơ Cuội mà tôi thích thú nhất là:  “Muốn Làm Thằng Cuội” của Tản Đà, xưng với Cô Hằng chị chị em em ngọt xớt, rõ hệt giọng điệu của Thằng Cuội:     
          Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
          Trần thế em nay chán nửa rồi
          Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
          Cành đa xin chị nhắc lên chơi
          Có bầu có bạn can chi tủi
          Cùng gió cùng mây thế mới vui
          Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám
          Tựa nhau trông xuống thế gian cười
                             Tản Đà . Nguyễn Khắc Hiếu
Hằng Nga là đệ nhất Thiên tiên (Tiên Nga).  Nhan sắc lu mờ tinh tú, mà thi sĩ xin lên cung Nguyệt chỉ để ngồi tựa vai người đẹp, tôi chắc ông không nói Cuội, và như vậy tôi phục ông quá!
Nhưng tôi càng phục ông hơn nữa là:  Trông xuống thế gian cười!
 –   Ôi! Bờm cười, Cuội cũng cười! gì cũng cười !!! chỉ cười thôi, chẳng nói gì cả!  
       Tản Đà qủa là Đệ nhất thi hào Việt Nam,  đáng yêu biết là chừng nào!
                           Trần Quốc Bảo
Trọn Đời Tạ Ơn – Thơ Trần Quốc Bảo

Nhạc khúc Công trường Chiến Sĩ”- Thơ Trần Quốc Bảo  – Nhạc Lê Xuân Mai –  Ca Sĩ: Đặng Phước Hải