
| Tiểu Sử: Sinh ngày 06 tháng 1 năm 1950 tại Hà Nội. Lớn lên tại Saigon, Định cư tại Hoa Kỳ năm 1995. Sáng lập và Thư Ký tòa soạn Tạp Chí Văn Phong chuyên về văn học nghệ thuật tại Miền đông Hoa Kỳ từ năm 1999 Chủ Nhiệm Tuần Báo Văn Nghệ Washington DC từ năm 1997 cho tới nay Cầm bút từ năm 1970, có truyện và thơ đang tại các tạp chí Văn, Văn Học, Bách Khoa, Nghệ Thuật (trước 75) |
| Tác phẩm : 1/ Tập thơ Lời Ghi Trên Đá do nhà Văn Nghệ xuất bản và Công Ty Phương Nam phát hành năm 2006 Bìa Đinh Cường- Phụ bản Cù Nguyễn- Ngọc Dũng- Đinh Cường 2/ Lời Ghi Trên Đá , CD Chín ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Minh Nữu từ các nhạc sĩ Tôn Thất Lan,Hồng NGuyễn, Việt Long, Trần Đăng Quang,Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Cẩn,Trịnh Xuân Ái. do Công Ty Phương Nam phát hành. |










| VỀ NGUYỄN MINH NỮU THỜI HẢI NGOẠI Nguyễn Vy Khanh ![]() Nguyễn Minh Nữu là tên thật, sinh ngày 6-1-1950 tại Hà Nội. Di cư vào Nam năm 1954, nhập ngũ năm 1968 và giải ngũ năm 1975. Làm thơ viết văn từ 1970, truyện đầu tiên “Một Thoáng Mây Phiêu Bạc” đăng trên Giai phẩm Văn số mùa Xuân 1971. Định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1995 và hiện sống tại Virginia. Sáng lập và thư ký tòa soạn tạp-chí Văn Phong (Washington DC, 1999-2001) và chủ nhiệm tuần báo Văn Nghệ (Washington DC, 1997-2014). Tác-phẩm văn học đã xuất bản: Lời Ghi Trên Đá (thơ; NXB Văn Nghệ Việt-Nam, 2006); Thương Quá Saigon Ngày trở lại (bút ký và truyện; Văn Nghệ, 2017), Thuồng Luồng Mắt Biếc (truyện và ký; Nhân Ảnh, 2021); Đất Nhớ Người Thương (bút ký; Nhân Ảnh, 2022). * Qua LVS người bạn chung của thời đi học và thơ thẩn ở Sài-Gòn, tôi “tái ngộ” Nguyễn Minh Nữu ở xứ người qua tờ nguyệt san Văn Phong, tạp-chí văn-học nghệ-thuật vùng Washington D.C., khoảng năm 1999, nơi tôi được đăng một số truyện ngắn và cũng nơi đây tôi “gặp lại” bạn Đoàn Văn Khánh – được đọc thơ của Khánh thì đúng hơn – cho đến năm 2014 gặp lại trong buổi ra mắt Quán Văn 26 về Hoài Khanh. Trước biến cố năm 1975, tôi “kiến kỳ văn” Nguyễn Minh Nữu qua tập truyện anh in ronéo từ Ban-Mê-Thuột năm 1972 – văn chương máu lửa của một thời đảo điên. Phải đến năm 2019 ngay trước khi vi-khuẩn Vũ Hán hoành hành cả thế giới, chúng tôi mới chính thức tay-bắt-mặt-mừng và liên lạc văn nghệ thường xuyên hơn. Thời tôi thường đến Washington D.C., anh chưa sang Mỹ và thời anh sinh hoạt văn nghệ mạnh nhất thì tôi đã dần rút về “tháp ngà” cố tránh vòng cương tỏa cộng đồng. Nói thế để khi đọc những bút ký Thương Quá Saigon Ngày Trở Lại, Số 19 Kỳ Đồng, Thu Ơi Là Thu, Bên Bờ Kênh Tẻ, Khu Nancy Ở Sài Gòn, Nhớ Về Long Kiểng, Khu Phố Ngày Xưa, Làm Báo ở Washington DC, Bên Dòng Potomac, … mới thấy rõ chân dung con người cực lực văn nghệ Nguyễn Minh Nữu và nhờ vậy được biết những sinh hoạt mình không thấy và biết nhiều. Nguyễn Minh Nữu nhập làng văn từ đầu thập niên 1970 ở Sài-Gòn, cho đến nay lượng tác phẩm không thật nhiều nhưng tôi đã nhận ra chúng song hành với con đường của văn học Việt trong tình cảnh phân ly Nam-Bắc và trong-ngoài. Hai truyện ngắn của một thời chiến tranh – Một Thoáng Mây Phiêu Bạc và Dòng Nước Mắt Xanh, ghi nhận những tâm tình khá nhân bản của người trẻ làm lính trận, cũng là người con của gia đình đáng ra phải xum vầy, hạnh phúc, và của người thanh niên với tình yêu đầu đời (tôi từng có tập Hát Ngợi Ca Tình Nhân thơ NMN và ĐVK, nhạc Nguyễn Quyết Thắng, cũng do nhà xuất bản Con Người in năm 1973). Cũng phải hơn hai thập niên sau, ngòi bút văn chương của Nguyễn Minh Nữu mới có dịp trở lại – với người đọc như tôi? Trở lại nhưng chín mùi và sâu sắc hơn. Trước hết, bút ký Thương Quá Sài Gòn Ngày Trở Lại với tôi là một bất ngờ thích thú và đặc sắc, về một Sài-Gòn hôm nay lồng trong những mảnh vỡ của ký ức, của tình bạn và thế giới văn chương trước sau năm 1975, đã là những nhìn thấy tận mắt, những thấu tâm can qua quan sát và ký ức của người viết. Nguyễn Minh Nữu sử-dụng thể-loại bút-ký, ở đây đồng thời cũng là tự truyện khi tác-giả viết về mình cũng như bạn hữu và các sinh hoạt văn-nghệ. Tâm sự của anh tức tâm tình, nhung nhớ, lại vừa mang tính sử ký về một thời và những con người thật có tên, có chân dung, từng ở đó, đang còn ở đó hoặc đã rời bỏ cũng như đã mất với những nét đơn sơ mà cụ thể, hữu hình, trung thực, những nét rất riêng, và là gốc gác, xuất xứ những văn bản thơ, văn và nhạc, kèm theo văn bản, cả “tình sử” làm nền, bạn văn,… Thành công làm sống lại được như vậy, anh phải thân thiết lắm, phải sống-chết-với lắm, dĩ nhiên với tài quan sát, với tình thân thương chân thật, với một trung thành vô vị lợi,… Anh cảm tình thắm thiết với Nguyên Minh người chủ biên tập san Quán Văn cùng những văn hữu biên tập, cộng tác. Trong hoàn cảnh không dễ, họ kiên trì và gây sống cho đặc san như thế nào, sinh hoạt và chia xẻ kinh nghiệm làm văn-chương và làm báo, làm sống lại không khí sinh hoạt văn nghệ một thời trong hy vọng chuyển lửa cho người trẻ hơn. Thiển nghĩ Thương Quá Sài Gòn Ngày Trở Lại đã như một “tổng quan” về văn học miền Nam của thế hệ trẻ những năm 1970 và sau đó, một “biên khảo” nhẹ nhàng và lôi cuốn người đọc. Khi viết về văn chương lưu đày, chúng tôi đã từng ghi nhận rằng quê nhà đã trở nên điểm tựa, cho những tham khảo đã mất! Nhưng với thời gian, nỗi nhớ cũng trở nên khô cằn, già cỗi, một cách bi thảm, khó khăn. Nỗi nhớ trong cô đơn, giữa những thê thảm của cảnh vật xa lạ, “của người” thường trực chung quanh,… đã là những yếu tố làm suy bại kẻ lưu đày! Quá khứ quấy rầy đến làm hỏng cuộc sống hiện tại; đã dứt bỏ quá khứ nhưng không dễ, lắm khi bị thương tổn. Thương Quá Sài Gòn Ngày Trở Lại đã thoát ra khỏi phạm trù đó, vì ở đây cái bất hạnh nếu có cũng chỉ do bất lực bình thường, của con người, của cuộc đời, của hoàn cảnh; ảo tưởng do đó không có chỗ trong hiện tại và cả tương lai! Ngoài bút ký, Nguyễn Minh Nữu làm thơ và viết truyện. Một số truyện ngắn có thể xem là tiêu biểu của anh, tiêu biểu về thể-loại và một nội-dung thường huyền-hoặc, tuy giả tưởng nhưng mang những nét thật, thật như từng xảy ra, thật như không thể khác (biết đâu!), có-không, không-có, như cõi đời vô thường mà chất đầy biến cố, sự việc,… Hiện thực nhưng không hẳn thực hữu, cũng có thể được hư cấu, vì sự hiện hữu hoặc cái hiện tại đó từng hoặc phải có tố chất của văn hoá, có liên quan đến lịch sử, thiên nhiên. Cái “tôi” khi có đó khi khác lại không, có khi là những tin tưởng của tác giả. Thuồng Luồng Mắt Biếc xảy ra ở trên phần đất ở ngoài nước mà căn rễ dây dưa với quá-khứ và tín ngưỡng của phương Đông huyền bí. Chuyện khởi từ một thời có thể xa xưa để kết thúc ở duyên số của Lân và Kim: “Kim nhắm mắt lại, gật đầu và ngả hẳn đầu mình vào vai Lân. Cặp mắt màu xanh biếc của nước biển khép nhẹ trên vai chàng trai mang dấu ấn ký thác của Thuồng Luồng. Lân gọi Kim là “Thuồng Luồng Mắt Biếc của riêng anh”” (TLMB, tr. 113). Con Trai Của Thủy Thần và Hảo Hán Cuối Cùng như những chân dung của con người và không gian từng hiện hữu mà tác-giả như tiếc nuối và thấy hãy còn sống động hoặc muốn như vậy. Hảo Hán Cuối Cùng gợi không khí những anh hùng Lương Sơn Bạc, với hai anh em kết nghĩa Lê Tùng, Phạm Tuấn cả đời tung hoành cho lý tưởng nhưng cuối cùng đi đến thực tế nhận chân cái khả thi của việc “giương cao ngọn cờ chính nghĩa vì dân trừ bạo không phải là việc một người, một nhóm người, hay một thời, một đời bất ngờ sáng tạo rồi làm nên được” mà “nó âm ỉ khai sinh từ nhiều con người, từ nhiều thế hệ, nó được thêm bớt bằng máu xương nhiều đời để thích nghi và đáp thoả yêu cầu chính đáng của tất cả. Lúc đó, mọi thế lực dù hung bạo và gian ác cỡ nào nhưng đi ngược với lòng dân thì cũng tự diệt”. Sáng tác các truyện ngắn này, tác-giả như để đề cao những nét nhân-bản và tình nghĩa á-đông đáng trân trọng, duy trì,… (TLMB, tr. 90). Sư Ông Chùa Núi “ở khu vực núi đồi, giáp ranh giữa ba tiểu bang Virginia, Maryland và West Virginia là nơi đầu nguồn của dòng sông Potomac, là vách núi dựng đứng, soi mình xuống dòng nước cạn lô nhô đá núi chảy miên man về phía đông tìm đường ra biển…” với Chơn Nhã nghiệm ra sau những cuộc đổi đời và phiêu bạc: “Thần thông là có thật, Nhân quả là có thật, Duyên nghiệp là có thật”. Buồn, mất hướng vì chuyện cách ly thời Covid-19, nhân vật Thành gặp Chơn Nhã và nghiệm ra “những điều khai thị giữa mùa dịch bệnh” được an tâm hơn, “Chấp nhận nghịch cảnh, dưỡng tâm an lạc và quán Thân bất tịnh, quán Thọ thị khổ, quán Tâm vô thường, quán Pháp vô ngã” (TLMB, tr. 25, 38). Có thể nói quá khứ luôn theo đuổi bước đường đời của Nguyễn Minh Nữu.Hà Nội Thứ Tư về một Hà Nội tiềm tàng vì đã thành nề nếp, kinh lịch của một thời xa vắng mà ta có thể tìm thấy, như một tấm lòng. Cuối Năm Nhớ Mẹ giải bày hiếu đạo với người mẹ luôn theo dõi đời con: “Nâng tách chè thơm buổi sớm mai Dáng người như một vệt sương phai Lẫn vào hương thoảng trầm hương cũ Lẫn cả hương đêm lúc rạng ngày. Là lúc thời gian đọng giữa chừng Không gian dường cũng rất mông lung Mẹ nối bây giờ cùng quá khứ Và gửi tương lai một tấc lòng (…) Đời con rồi ghé vào hưng phế Đã biết bao nhiêu cuộc đổi dời Tĩnh tâm chỉ có khi ngồi lại Sớm mai nhớ Mẹ, tách chè thôi. Sớm mai bên Mẹ tách chè thôi Tâm nhẹ nhàng theo dáng mẹ ngồi” (TLMB, tr. 169, 170). Văng Vẳng Bên Trời Tiếng Hạc Qua là ký ức về Phó Bảng Nguyễn Can Mộng, thân sinh của nhà văn, từ trần khi anh mới 4 tuổi: “Bảng Mộng là lớp nhà nho cuối cùng của truyền thống Hán Học ở Việt Nam, sinh ra trong một gia đình chống Pháp, cha và chú bị giặc bắt và hành hình. Nhưng từ ngàn năm lịch sử, con đường tiến thân duy nhất của khách nam nhi là học hành, thi đỗ để làm quan, con đường đó phù hợp với chí khí kẻ làm trai, lại vừa là những khát vọng bình thường của xã hội. Nhưng lúc đó lại là cuối con đường, triều đình vua quan không còn là nơi nương tựa, chữ nghĩa thánh hiền không phải là cái tự tin. Phải sống thế nào và phải làm gì để không ngược lại với cả một quá trình gian khổ tập luyện đã thành một nề nếp một đời, vừa đem được cái kiến thức thực học ra giúp đời sau”. Thời bình-sinh làm quan, dạy học và làm vănnay được anh “Ghi lại những ký ức của gia đình như một ký dấu cho con cháu đời sau, mà lòng hoài niệm vẫn mang mang: “Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua”” (TLMB, tr. 175, 187). Thi Thánh: Sinh được Thi Thánh truyền cho cảm nhận về tinh túy thâm sâu mà đa dạng của thi ca, đã vứt bỏ những bài thơ định sẽ gửi đăng báo như là những “Bài Thơ Cuối Cùng cho một thời ảo vọng, viết xuống không bằng cảm xúc mà viết như một kỹ năng, viết xuống không phải bằng niềm khao khát thiết tha nào mà chỉ là ham muốn đập cái tên của mình vào mắt mọi người, những cái trưng bày gần như trơ trẽn” (TLMB, tr. 43). * Đọc những nhà văn lớn, đã nổi tiếng, hình như độc giả không thiết yếu phải hồi hộp, cứ thả mình nhẹ nhàng đi vào nội dung. Chính khi đến với các tác giả mới, người đọc sẽ có những bất ngờ có thể ít nhiều mong tìm hoặc không chờ đợi. Với tôi, văn xuôi của Nguyễn Minh Nữu ở vào trường hợp sau này. Truyện và bút ký cùa anh mang ký vãng và người xưa trở về như tất yếu, như nền móng của cuộc đời nắng mưa của con người Việt Nam ở hậu bán thế kỷ XX nhiều đa đoan, chìm nổi. Con chữ ở đây không để than mây khóc gió hoặc tham vọng để lưu dấu văn chương cho đời. Nguyễn Minh Nữu nếu có buồn, than là vì cuộc đời nhiều đày đọa đắng cay, vì phần số không thoát được kiếp làm người ở đất Việt thời nhiễu nhương tàn bạo. Ở Nguyễn Minh Nữu không có nhiều dấu vết “lưu vong” và “hội nhập” như những tác giả ở ngoài sau năm 1975, nhưng nhiều hoài niệm mang âm hưởng tâm linh và huyền hoặc. Thiển nghĩ chính những nội dung vừa kể và cách nghĩ và viết mang tính hậu hiện đại đã làm nên văn chương Nguyễn Minh Nữu, độc đáo khác người giữa nền văn học hải ngoại. 15-8-2024 [Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, 2025, tr. 713-718] |
| NGUYỄN MINH NỮU- SƯ ÔNG CHÙA NÚI 1/ Ở khu vực núi đồi, giáp ranh giữa ba tiểu bang Virginia, Maryland và West Virginia là nơi đầu nguồn của dòng sông Potomac, là vách núi dựng đứng, soi mình xuống dòng nước cạn lô nhô đá núi chảy miên man về phía đông tìm đường ra biển. Có một con đường nhỏ tên là đường Đồi Đậu Phộng, chạy men theo vách đá, lên cao, lên cao, quanh co chạy uốn vòng theo vách đá rồi đi vào những đồi cao thấp khác nhau để vào khu cao nguyên của thị trấn Charles Town của tiểu bang West Virginia. Những ngọn đồi xanh cây cỏ, vườn tược, thấp thoáng xa xa mới có một căn nhà ẩn sâu trong rừng cây, cái đẹp của cao nguyên là cái đẹp của cô tịch. Thường thì vẫn có những con đường nhựa nhỏ, dẫn vào một căn nhà hay một khu gia cư nào đó mà đằng trước có bảng đề rõ Đường Riêng Tư, cá biệt là khoảng giữa đồi, có con đường mang tên Nuisap St., tên con đường nghe như tiếng Việt làm cho tay lái lãng du bỗng dưng chậm lại. Dịch bệnh Covid đẩy toàn thế giới vào cơn biến động đặc biệt, số người nhiễm càng lúc càng tăng cao. Mỗi quốc gia, mỗi thành phố có một cách ngăn ngừa và chống lây lan khác nhau. Nhiều nhất vẫn là tránh giao tiếp, tự cách ly mình khỏi đám đông, cô lập trong nhà và trang bị khẩu trang, bao tay khi bắt buộc phải ra ngoài. Những ngày đầu tháng 3, lệnh giới hạn gặp gỡ giao tiếp được ban hành, mọi người nghiêm chỉnh chấp hành, các hàng quán đóng cửa, các hẹn hò … từ nay xếp lại, chỉ có điều khó lòng mà tâm nhẹ nhàng như mây… (nhạc TCS). Ông Thành lại là người giữ gìn nhiều nhất, bởi vì ông có đầy đủ yếu tố để dễ nhiễm bệnh: già yếu, có bệnh nền là cao mỡ, cao máu, thấp khớp… Tháng đầu, thoải mái trong nhà, với kế hoạch buổi sáng thăm viếng nhà bếp, buổi trưa tham quan phòng khách, buổi tối hẹn hò ăn với vợ và bắt đầu giao tiếp bạn bè thân hữu từ xa trên mạng. Kế tiếp tìm thêm thú vui bằng đọc sách, xem tranh, vẽ vời nhưng qua tới tháng thứ hai thì quẩn chân quá đỗi. Phải đi ra ngoài thôi, không cần gặp gỡ ai cả, không hẹn hò hay nhắm tới phải đi đâu, cứ việc lên xe, tự trang bị cho mình nước rửa tay, khẩu trang, nón và kính mát, và lái đi. Nhớ đến câu chuyện Thiền, khi một thiền sinh này hỏi thiền sinh kia anh đi đâu đấy, và câu trả lời là gió thổi đến đâu tôi đi đến đó. Trên xe thì đâu có gió, nên tự nhắn với mình đường chạy tới đâu, tôi đi đến đó, bữa nay chạy về hướng đông, ngày mai chạy về hướng tây, ngày mốt hướng nam, hướng bắc. Và hôm nay, ông Thành thong dong chạy về hướng tây, chạy ven theo con sông Potomac về phía đầu nguồn, thấy con đường lạ thì lái xe vào và bây giờ đang ngẩn ngơ nhìn tên con đường nghe như âm hưởng Việt Nam: Nuisap St. 2/ Con đường nhỏ uốn lượn theo các cánh đồng trồng nho ven những ngọn đồi xa, chạy xa lắm mới thấy hình bóng căn nhà. Gần hơn, mới thấy thực ra là một cụm ba căn nhà gần kề. Hai căn hai bên thì rất bề thế, nhìn như một tòa lâu đài, cái lạ là nhìn thì biết ngay là cùng một chủ nhân, vì cách xây dựng, màu sơn, cho đến hàng rào gỗ trắng cũng in hệt như nhau. Chính giữa hai căn đó là một ngôi nhà nhỏ hơn, phải nói là nhỏ hơn rất nhiều. Hai bên là hai biệt thự lớn hai tầng, có sân vườn trồng hoa cắt tỉa khéo léo, có đường cho xe chạy từ cổng vào cong theo bồn hoa giữa sân để chạy vào sát khung cửa chính, có bậc thang đưa lên kiểu cách và tinh tế, bề ngang rộng rãi có lẽ phải là ba căn phòng tiếp nối nhau vì nhìn ra phía trước ngoài cửa chính còn có 8 cái cửa sổ, treo rèm màu tím sẫm, cả hai căn đều kết cấu xây dựng như nhau, sơn màu như nhau, mà rèm cửa cũng cùng màu như nhau luôn. Căn nhà ở giữa thấp nhỏ, cửa chính và hai cửa sổ hai bên, chỉ có một con đường nhỏ trải sỏi chạy từ trước vào bên hông nhà. Căn nhà thực ra chẳng có gì đáng chú ý, nó nhỏ và hẹp, đơn giản và cô độc, nằm giữa hai tòa biệt thự, nhìn nó không khỏi liên tưởng đó là một cái nhà kho của hai căn nhà hai bên. Cái làm ông Thành đặc biệt chú ý là trước cửa nhà, có một cái bàn Thiên. Đó là một cái trụ xi-măng cao khoảng thước rưỡi, bên trên là một tấm bê-tông vuông nhỏ, trên đó có một cái giống như bát hương, dường như có cả mấy cọng chân hương. Căn nhà cách mặt lộ khoảng vài chục thước, trong khi hai tòa biệt thự hai bên xây cất thụt vào trong sân cả gần trăm thước. Ông Thành đậu xe vào lề đường, nhìn ngắm căn nhà và lòng nổi lên nhiều thắc mắc. Tiếng máy xe từ bên hông căn biệt thự chạy ra, một chiếc xe cắt cỏ, chiếc xe chạy rà rà và đậu ghé bên xe ông Thành. Người đàn ông trên xe đầu trùm kín bằng cái nón lớn, mặt thì che khẩu trang, ghé lại hỏi bằng tiếng Anh: Tôi có thể giúp gì cho ông? Ông có cần gì không? Rồi giọng nói ồ lên, Ông là người Châu Á phải không? Ông Thành đáp lại, “Vâng tôi là người châu Á, tôi là người Việt Nam. Tôi chỉ chạy ngang thôi, khu đồi này đẹp quá!” Người đàn ông tắt máy xe, gỡ cái nón ra, rồi bước xuống xe nồng nhiệt chào hỏi. Lần này thì bằng tiếng Việt: – Hay quá, tôi là người Việt, hiếm khi gặp người Việt ở vùng này. Ông có thời gian không? Ông có thể ghé nhà chơi, chúng ta có thể uống nước trà và chuyện trò cho vui. – Ông Thành ngần ngừ, thời gian thì có, vì tôi đang rảnh rỗi hoàn toàn, nhưng mùa Covid này… – Ồ không sao đâu. Tôi là người vùng này và… tôi đã cách ly với đời sống cả ba năm nay chứ không chỉ vài tháng vừa qua. Còn về phía ông, nếu ông cảm thấy an toàn thì chúng ta có thể trò chuyện mà. Người đàn ông gỡ bỏ khẩu trang, lộ ra khuôn mặt trắng hồng đôn hậu, đuôi mắt có dấu chân chim, khoảng chừng trên dưới 60. Lúc này ông Thành mới chú ý người đàn ông cạo đầu trọc và bên trong lớp áo khoác, lộ ra cổ áo màu nâu. – Ông là người xuất gia? Người đàn ông bật tiếng cười, không, tôi có một thời là tăng sĩ, nhưng bây giờ chỉ là một người tu tại gia thôi. Ông Thành vui vẻ tắt máy xe, bước xuống, thật hân hạnh được quen với ông, xin được uống với nhau vài chén trà. Đi theo sau chủ vào căn nhà nhỏ. Mở cửa bước vào là phòng khách, kê bộ bàn ghế gỗ đơn giản, giữa nhà, đúng là có một bàn thờ Phật, nhưng là một bàn thờ Phật tại gia, hết sức đơn giản. Không có tượng, treo giữa là tấm ảnh chụp pho tượng bán thân Đức Phật đen trắng, trên bàn thờ có lọ hoa tươi chắc mới hái trong vườn, cái chuông, mõ nhỏ và xâu tràng hạt gác ngang cuốn kinh. Chủ mời khách an tọa, rồi lúi húi cắm điện nấu nước sôi. Vóc dáng nhanh nhẹn và khi nhìn sau lưng hai đường gân cổ nổi lên thẳng đứng mạnh mẽ, làm ông Thành mênh mang nhớ… hình như có chút gì quen thuộc. – Thưa… ông quý danh là gì? Ngày xưa xuất gia pháp hiệu là gì, xin cho biết để dễ xưng hô? -Tôi là Chơn Nhã. Ông Thành buột miệng la lên: “Chơn Nhã… Thủ Đức? …” Chơn Nhã cũng giật mình, quay phắt lại. “Phải rồi Thủ Đức, ngày xưa tôi xuất gia và tu học tại một thiền viện ở Thủ Đức… Sao ông biết?” Ông Thành đứng bật dậy, hướng về Chơn Nhã chắp tay chào, “Chơn Nhã không nhớ tôi sao? Tôi là Minh Thành…” – Minh Thành, Minh Thành… Tôi nhớ rồi, hồi nãy khi nhìn ông, tôi đã ngờ ngợ… 3/ Khoảng năm 1976 gì đó, Thành làm nghề cưa lọng hàng mỹ nghệ gỗ ở Saigon, làm giao mối cho các chợ Bình Tây, Bến Thành, An Đông và một số cửa hàng bán quà cưới ở Hóc Môn, Thủ Đức. Có lần, chạy lên Thủ Đức giao hàng, khi về, trời buổi trưa nóng nực, mệt mỏi Thành chạy xe ngang một ngôi chùa có cây cao bóng mát ở gần xa lộ. Đậu xe vào một gốc cây cao, bên dưới có sẵn cái ghế đá, Thành ngồi xuống và mệt quá nằm ngủ lúc nào không hay. Không biết chợp mắt được bao lâu, khi giật mình thức dậy, nhìn vẫn thấy còn xe, và bên cạnh lại có sẵn một ly nước có đá. Thành sửng sốt nhìn quanh, thấy từ hiên chùa một chú tiểu đưa tay lên chào. Thành cảm tạ rồi nâng ly lên, té ra không phải nước lọc, mà là một ly chanh muối ngọt ngào, thanh mát giữa trưa hực lửa. Thành bước tới cám ơn, chú tiểu xưng tên là Chơn Nhã, và hẹn khi khác nói chuyện, vì giờ này Bổn Sư vừa thức nên chú phải lên hầu Sư phụ. Những lần sau, Thành lên chùa, tìm gặp Chơn Nhã, chuyện trò mới biết Chơn Nhã gốc là người miền Trung, xuất gia vào chùa đã được 4 năm và đang là một trong hai Thị Giả của Hòa Thượng trụ trì. Năm đó Chơn Nhã 17 tuổi và đang theo học lớp 12 ở trường trung học thị trấn. Thị Giả là người gần gũi nhất đối với sư phụ, là người chăm lo miếng ăn nước uống, hầu thay y phục và bên cạnh sư phụ trong tất cả các lễ nghi, lúc giảng pháp, lúc hành lễ và cũng là người thu xếp các tiếp xúc của sư phụ đối với người ngoài. Trong Phật giáo, vị Thị Giả nổi tiếng nhất chính là ngài A Nan theo hầu Đức Thế Tôn, và trở thành vị Tôn Giả uyên bác nhất của Phật giáo. Chơn Nhã còn trẻ, nhưng từ lời ăn tiếng nói cho tới phong cách đi đứng đều giữ nghi biểu điềm đạm thanh tịnh. Thành và Chơn Nhã kết bạn với nhau, Thành học được thật nhiều điều từ người bạn trẻ tuổi xuất gia này. Kỷ niệm với Chơn Nhã là có lần, Thành thấy Chơn Nhã thường đi chân không, nên trong dịp ghé thăm, đã tặng Chơn Nhã đôi dép và hai cục xà bông ngoại. Chơn Nhã nhận món quà một cách trân trọng, đứng lên cúi đầu cám ơn. Sau đó nhẹ nhàng: Chơn Nhã nhận tấm lòng của Minh Thành rồi, nhưng xin cho Chơn Nhã tặng lại Minh Thành, vì Chơn Nhã không sử dụng. Đi chân không là theo giáo pháp của Khất Sĩ, đi để tránh trường hợp vô ý sát sinh các sinh vật nhỏ trên đường đi, còn xà bông thì quý lắm, nhưng Chơn Nhã đang sống trong tăng chúng, và chỉ sử dụng cái gì mà các tăng chúng cùng sử dụng chứ không nên xài cái khác. Rồi lần khác khi tạm biệt nhau, Thành chắp tay cầu chúc Chư Phật gia hộ cho Chơn Nhã thân tâm an lạc. Chơn Nhã mỉm cười cám ơn, Minh Thành chúc lành cho Chơn Nhã là lòng Minh Thành rất tốt, nhưng Chơn Nhã nghĩ Đức Phật không giáng họa cho ai thì ngài cũng đâu bao giờ ban phước cho ai. Tìm được an lạc là từ giáo pháp của Thế Tôn, nương vào đó, tự tu tập mới tìm được an lạc thực sự chứ. Sau đó, lên chùa mấy lần không gặp Chơn Nhã, Thành bước hẳn vào chùa xin gặp Chơn Nghĩa là bạn đồng tu với Chơn Nhã và cũng là Thị Giả của Hòa Thượng để hỏi thăm về Chơn Nhã. Chơn Nghĩa trả lời là Chơn Nhã không ở chùa nữa, còn Chơn Nhã đi đâu làm gì không ai biết. Ai ngờ gần 40 năm sau lại có cuộc hội ngộ bất ngờ này. 4/ Đây là câu chuyện của Chơn Nhã. – Đúng là khi tôi rời chùa, không ai biết tôi đi đâu, ngoại trừ Ân sư. Chính Ngài đã chấp thuận và khuyến khích tôi đi ra khỏi chùa. Chuyện là một buổi trưa đó, sau khi hầu Ân sư xong, khi Thầy ngồi tịnh, tôi như có một thôi thúc kỳ lạ nên đi xuống sân chùa thì gặp một người giống như hành khất. Thật ra đó là một Du Tăng vì ông cụ đó tuổi đã rất cao, gầy ốm hom hem, đầu trọc nhưng tóc đã mọc ra lún phún, bạc trắng, áo tăng bào sờn rách, cái bị vải cũng không lành lặn, cậy gậy ông cụ chống lại là một nhánh cây khô và bước đi chập choạng như muốn té. Tôi sửng sốt chạy lại đỡ ông cụ vào hàng hiên ngồi và chạy vào nhà trai xin một dĩa cơm, ly nước đem ra cho ông cụ. Hỏi thăm thì ông cụ không trả lời vào câu hỏi mà nhướng đôi mắt lên hỏi tôi có phải là một tăng sĩ không? Ánh mắt của ông cụ thật kỳ lạ, sáng như bên trong có đèn, nhưng lại phát ra sự đằm thắm, ấm áp, nhân từ. Tôi trả lời đúng, cụ gật đầu, ta cũng là một tăng sĩ đây, ta có một ngôi chùa ở trên núi, ta có một giáo pháp biệt truyền, và ta đang tìm một truyền nhân phó thác, con có bằng lòng đi theo ta không? Tôi thưa rằng tôi thí phát và xuất gia ở đây, tôi có sư phụ còn đang hiện tiền, con có thể thỉnh ý Ân sư để mời Hòa Thượng trụ thế nơi này, còn đi theo ngài thì… chắc không thể được. Vị sư già sửa lại thế ngồi, hai chân xếp lại, hai tay chắp tay trước ngực nhắm mắt lại một hồi lâu. Rồi mở mắt ra, nói với tôi hãy lên thỉnh ý Ân sư đi. – Thỉnh ý chuyện gì, thưa ngài? – Chuyện ta muốn nhận con làm truyền nhân và muốn dẫn con đi theo ta lên núi. Thú thật là tôi bàng hoàng với lời đề nghị lớn lao này. Đã xuất gia đi tu thì nơi nào cũng có Phật, Phật tự trong tâm mình chứ có phải từ chùa lớn chùa nhỏ gì đâu, nhưng xuất gia và tu tập tại đâu thì mến cảnh mến chùa chỗ đó. Ân sư lại là người khai thị và dìu từ bước khởi đầu đến nay, đột ngột nói chuyện ra đi lòng sao chẳng ngại. Nhìn lại vị sư già ngồi đó, bỗng hiển hiện trong tôi là hình ảnh Đức Thế Tôn lúc ngài đang tu khổ hạnh, nghĩ tới sự già yếu, cô độc giữa rừng sâu của một người khất giả, tự nhiên tôi cũng cảm thấy một cảm thông sâu sắc. Tôi xin phép rồi chạy lên phòng tịnh của Ân sư. Nhìn qua khe hở, thấy Ân sư vẫn đang thiền định, tôi ngần ngừ chưa biết làm sao, bỗng Ân sư mở mắt gọi: “Chơn Nhã, vào đây!” Tôi mở cửa chạy vào quỳ trước mặt ngài. Ân sư đưa tay xoa trên đầu tôi: – Chơn Nhã nghe đây, tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Thế Tôn thì pháp nào cũng là phương tiện để con người tìm được bến bờ an lạc, nhưng đã là con người thì ai cũng phải vào vòng Duyên nghiệp. Có Duyên khởi thì phải có Quả nghiệp. Vị cao tăng dưới sân đó chính là Nghiệp Sư của con, người mà ngài tìm kiếm chính là con, và bây giờ gặp được rồi, con nên đi theo quả nghiệp đó. Tôi sững sờ, chưa kịp tác bạch điều gì, Ân sư đã nói hết rồi. Tôi bần thần: Thưa thầy… là duyên của con sao? Là nghiệp sư của con sao?… Ân sư gật đầu, không chần chờ được đâu, không cần tạm biệt bất cứ ai, con lên đường ngay đi. Ta chúc phúc cho con. Nói xong Ân sư nhắm mắt lại an trú vào cõi tịnh. Tôi quỳ xuống đảnh lễ với Ân Sư và vào phòng lấy thêm một bộ quần áo nữa cho vào túi xách. Xuống tới sân thì vị hòa thượng kia đã lững thững bước ra gần tới cửa chùa. Tôi không nói gì nữa mà chỉ chạy vội theo. Tôi đi theo hòa thượng đó tới Châu Đốc và đón xe vào Núi Sập. Khi đến chân núi Sập, đường lên núi gập ghềnh, cheo leo, nhiều lần tôi đưa tay định dìu, nhưng ngài lắc đầu. Cái hình ảnh vị sư già ốm yếu ngồi không vững ở sân chùa hoàn toàn biến mất. Vẫn là vị sư già, còm cõi, rách rưới, nhưng bây giờ bước đi vững chãi, hoạt động nhẹ nhàng và khuôn mặt thanh tịnh, làm tôi sinh lòng kính ngưỡng. Về tới chùa, thì là một gian nhà lá, có hai bên cái chái cũng lợp bằng lá, gian giữa không có vách, nền gạch tàu đỏ au, giữa là bàn thờ Phật đơn sơ nhưng rất trang nghiêm, có hoa tươi và trái cây. Tôi ngạc nhiên vì Hòa thượng đi vắng bấy lâu ai là người dọn dẹp, quét tước và hương hoa dâng cúng. Nhưng chỉ một buổi là hiểu ra. Ngôi chùa bằng lá đơn sơ này là nơi chẩn bệnh và phát thuốc miễn phí, có một tịnh cốc phía sau của vị sư già, quanh quẩn gần xa, phía núi trên cao và phía lũng dưới thấp còn có những gian tịnh thất khác, các vị sư ở đó mỗi ngày vẫn lên ngôi chùa lá chính này để hái thuốc, phụ phát thuốc, chăm sóc bàn thờ Phật giữa nhà. Sáng sớm hôm sau, trước khi bình minh hé rạng, sau thời kinh sáng, vị Sư già gọi tôi ngồi xuống trước chánh điện khai mở rằng: – Con biết ta là ai không? – Bạch Thầy, con không biết. – Đi theo ta tới một nơi không rõ, học theo một pháp môn nào không rõ vậy động lực nào làm con đi theo ta? – Bạch Thầy, con thực lòng không biết, chỉ là khi bất ngờ gặp ngài, tự nhiên con cảm thấy quyến luyến và tin tưởng, con thật lòng không chờ mong một điều gì bởi đã xuất gia thì nơi đâu cũng là cõi đạo, chỉ nghĩ rằng hữu duyên thì xin đi theo lời gọi của duyên mà thôi. – Được lắm, hôm nay ta khai mở cho con hiểu. Ta và ân sư của con là huynh đệ đồng môn. Con được thu nhận vào chùa và lập tức trở thành thị giả của ngài chính là sự sắp xếp của ta. Ngay pháp danh của con cũng là do ta khai thị, bởi vì pháp danh của ta là Nguyên Nhã. Ta chưa xuống đón con là do duyên chưa tới và do chính con chưa phát tâm đủ đầy. Rõ ràng rồi, từ nay, con là đệ tử của ta. Vị Sư ngừng lại, rót thêm trà vào hai ly nước, rồi đứng dậy đi về phía bàn thờ Phật, thắp một nén nhang thơm, cúi đầu đảnh lễ rồi mới thong thả kể tiếp. – Tám vạn bốn ngàn pháp môn là một lối nói của người Ấn, mô tả một cái gì nhiều lắm không đếm xuể chứ không phải là con số chính xác. Trong các giáo pháp của Phật thực ra có rất là nhiều con đường và con đường nào cũng để đi tới an lạc. Hai vị ân sư của tôi đi theo hai cách khác nhau. Một là Hiển tông hay còn gọi là Đại Thừa, tu học và rao giảng chánh pháp với mọi người. Hai là Mật Tông, tu theo giáo pháp nhưng hướng vào tìm hiểu và khám phá chính mình, khám phá và chứng nghiệm những khả năng và quyền lực bí ẩn của con người. Ai cũng có những năng lực kỳ diệu này, có điều Biết, Hiểu và Sử dụng được những năng lực đó đòi hỏi nhiều tu dưỡng, được hướng dẫn chuẩn xác và đặc biệt phải có cơ duyên đủ đầy. Chơn Nhã ngừng lại, hướng về Minh Thành, giọng nhấn mạnh hơn: Thần thông là có thật, Nhân quả là có thật, Duyên nghiệp là có thật. Đó là những điều tôi ghi nhớ và chứng nghiệm suốt 10 năm tu hành và theo hầu hai vị chân tu Ân sư. – Rồi lý do gì ông bỏ tu và cơ duyên gì ông đến nước Mỹ? Giọng Chơn Nhã trầm hẳn lại: – Tôi ở trên núi được 4 năm thì Ân sư viên tịch. Bốn năm đó chuyên cần học pháp để nhìn thấu bản thể, chứng kiến biết bao thần thông của Ân sư, từ nghe được tiếng nói, thấy được dịch chuyển từ xa, nhận được nghiệp duyên và căn bệnh từng người, nhiều lắm, nhiều lắm… Ở quanh vùng, người ta không gọi pháp hiệu của ngài, mà chỉ kính cẩn nhắc về Sư Ông Chùa Núi. Tất cả những lời chỉ dạy, thuyết giảng chỉ nhằm hướng dẫn người ta đi vào tu tập để tự đoạn nghiệp chướng của mình. Phương pháp tu dưỡng thì được chỉ bảo cặn kẽ rồi, nhưng theo được tới đâu lại còn tùy căn cơ mà chứng ngộ. Khi Ân sư viên tịch, ngài gọi tôi dặn dò là nghiệp chướng của con quá nặng, ta đã hướng dẫn và trì chú trợ lực cho con rất nhiều, ta biết rõ con chí tâm hành trì kinh pháp, nhưng vượt qua được để tiếp tục tu hành hay không, thực không biết được. Hãy sống bằng lòng bao dung, từ ái và quan trọng là tự hiểu được duyên ta có và nghiệp ta nhận với tâm tĩnh lặng. Ân sư viên tịch chưa được bao lâu tôi cũng phải rời chùa. – Rời chùa nghĩa là cởi bỏ tăng bào hoàn tục hay sao? Chơn Nhã gật đầu, Chùa trên núi đó có nhiều đàn na thí chủ thường xuyên thăm viếng và bảo trợ. Có một gia đình khá giả ở chân núi Sập, nay ra lập nghiệp ở Phú Quốc gặp nhiều nạn kiếp, muốn lập trai đàn cầu an nên lên chùa nài nỉ mời đi tụng kinh. Do lòng quý mến từ lâu nên tôi nhận lời. Đêm hôm đó tụng kinh cho đến nửa đêm, gia chủ mời đi nghỉ trong phòng, nhưng tôi từ chối, bước ra ngoài cái chái bên hông nhà, ngồi tịnh tâm nghe sóng vỗ rì rào và nhắm mắt dưỡng thần, chờ sáng sẽ đi thuyền vào đất liền. – Đêm đó là cái đêm định mệnh ông à… Chơn Nhã thở dài rồi ngồi im lặng. 5/ Miền đông bắc Hoa Kỳ vào đầu tháng 9 là đang buổi giao thời giữa hè và thu, nắng vẫn vàng tươi trên cánh đồng, nhưng vài cơn gió thổi mênh mang chút lạnh vào người. Ông Thành nóng ruột muốn hỏi thêm cho hết câu chuyện mà Chơn Nhã vẫn cúi đầu im lặng, hai tay để xuôi theo thân như đắm mình vào một suy tưởng gì xa lắm. Bất chợt ông đứng lên: – Mình đi ra ngoài dạo một vòng cho nhẹ nhàng, ông nhé. Chơn Nhã chỉ vào tòa biệt thự giới thiệu đó là nhà của vị thí chủ ngày xưa ở núi Sập, Châu Đốc. Ông bà có trang trại lớn cả mấy chục mẫu tây trồng nho, táo, dâu, bắp nên con đường mở ra từ giữa trang trại là do ông bà thực hiện. Để nhớ đến quê hương ông bà đã xin phép và đặt tên đường là đường Núi Sập. Hai ông bà đều đã mất cả chục năm nay, trang trại giao lại cho người con trai trưởng. Ông bà cho tôi một căn nhà nhỏ để cư trú và trông coi, chỉ có một mình tôi cắt cỏ, dọn dẹp vườn tược, quản lý tài sản như một quản gia… – Vậy là ông lập gia đình và … còn bà đâu? – Nhà tôi mất hơn ba mươi năm nay rồi. Ông Thành tò mò, phải chăng bà chính là người trong cái đêm gọi là định mệnh đó? Chơn Nhã tần ngần, hôm nay gặp lại ông như một cố nhân, nên có những điều giấu kín trong lòng xin bộc bạch trước là cho nhẹ lòng, sau cũng là đền đáp nghĩa tâm giao. – Phú Quốc ngày xưa vắng vẻ lắm, dân cư thưa thớt sống bằng nghề chài lưới dọc theo bờ, đánh bắt đồi mồi, chỉ có vài ba gia đình do có thuyền lớn đánh cá từ ngoài khơi, thu mua hải sản rồi đem về bán ở đất liền hoặc mở vựa nước mắm thì mới khá giả. Ông Bà Năm Hương này là một gia đình như thế, trong nhà bạn chài, gia nhân cả mấy chục người. Năm đó, trong hai chiếc thuyền của họ có một chiếc cứ mỗi lần ra khơi là bị tai nạn, hoặc thuyền trưởng, tài công nhiễm bệnh, hoặc máy móc trục trặc, ông bà mới lập đàn tràng cầu an. Ông bà đó là một đại tín chủ của chùa, họ tin tưởng và thân tình với Ân sư rất nhiều nên ông bà lên núi thỉnh mời, ai ngờ Ân sư vừa viên tịch nên tôi nhận lời đến trì chú giúp họ. Đêm đó, sau khóa kinh đêm, tôi ra nhà ngang ngồi dưỡng thần, chờ sớm hôm sau thì theo thuyền về đất liền. Đêm đó thực sự là trăn trở, cứ chợp mắt thì lập tức cảm thấy như bị đẩy vào những hỗn loạn, trời đất như xoay vòng vòng. Tôi giật mình tỉnh lại, vội vàng ngồi thẳng lưng cố định tâm lại, chỉ chút xíu lại bị đưa vào cơn mê, chuyện đó lặp đi lặp lại mấy lần, tỉnh dậy, rồi lại mê đi… cho tới lúc thấp thoáng phía đông ửng sáng, tôi mới đứng dậy đi ra sân hít thở cho thoáng, chờ tới giờ lên thuyền về lại Rạch Giá, rồi đón xe về núi Sập. Chuyện tưởng sẽ chẳng có gì, nhưng bất ngờ mấy tháng sau, tôi nhận được nhắn gọi khẩn cấp ra Phú Quốc có chuyện cần. Tới nơi, ông bà Năm Hương trách móc là tôi làm chuyện tư tình bậy bạ mang tai tiếng cho chùa, và ảnh hưởng tới ông bà rất nặng. Tôi sửng sốt ngạc nhiên hỏi lại. Thì ra ở cạnh nhà, có một gia đình làm công cho gia đình Năm Hương, người cha đi theo thuyền và đã mất, người mẹ và cô con gái tiếp tục làm công cho vựa cá. Nay bỗng dưng cô gái mang thai, bà mẹ buồn bã sinh bệnh, hỏi han mãi mới nói ra trong đêm lập đàn tràng đó cô ta lén lút tình tự với một thanh niên đầu trọc mà cô ta cũng không biết rõ là ai. Hôm đó đàn tràng chỉ có một mình Sư đầu trọc từ phương xa đến không ai quen mặt nên nghi quyết là Sư làm bậy. Tôi cả quyết là chuyện không có, xin gặp cô gái để phân bua. Cô gái trả lời thật lòng cô cũng không chắc, vì lúc đó như một cơn mê sảng, không phân biệt trắng đen. Chỉ có một điều ghi nhớ là người thanh niên đó đầu trọc và sau lưng có một cái bớt màu đỏ lớn bằng nắm tay. Ông Năm Hương kéo tôi vào buồng trong, lột áo ra xem xét và la lên, đúng rồi, không thể sai được. Cô gái thì nhà nghèo, mẹ già yếu đuối bệnh tật và đôi mắt ràn rụa nước mắt, ăn nói chân chất không phải dối lừa, tôi thì tình ngay nhưng lý gian, chối cãi không được nên đành khuyên cô gái, có lẽ tôi và cô có một nghiệp duyên nào đó chứ không phải tôi sinh lòng tà dục đâu. Nay đã có nghiệp thì phải trả nghiệp, tôi xin chịu trách nhiệm với em về đứa bé này. Xin cho tôi một tháng, trở về chùa, trả hết tăng phục, bàn giao nhà thuốc và xin hoàn tục trở về đây làm ăn nuôi con. Tôi vào kể hết mọi chuyện với ông bà Năm Hương, nói rõ lòng tôi phát nguyện tu hành, nhưng nghiệp chướng đã theo và vận vào không sao thoát được. Xin hoàn tục đền bồi và vẫn xin giữ giới tu hành dù không còn trong tăng sĩ nữa. Ông bà Năm Hương gật đầu, nhận đứng ra chủ hôn và nhận tôi vào làm cho vựa cá để có tiền nuôi thân. Đứa bé ra đời là một bé trai, điều kỳ dị là nó có khuôn mặt, ánh mắt nụ cười giống tôi như hệt, như đúng là thực sự nó là con ruột thịt của tôi. Hai vợ chồng tôi cùng phát nguyện tu tại gia, an trường trai và cùng nhau tu học, bỏ qua tất cả những ân ái đời thường. Khi ông bà vượt biên, mẹ vợ tôi cũng đã mất, ông bà dắt theo vợ chồng tôi và đứa con nhỏ theo ghe đi luôn. Khi tới đảo, do bị phân chia khác nhóm, tản mát đi định cư các tiểu bang khác nhau tùy người bảo lãnh nên tôi mất luôn liên lạc với gia đình đó. Qua Mỹ được ba năm thì vợ tôi mất. Tôi xông xáo làm đủ thứ nghề nuôi thân và nuôi con, từ đi làm vệ sinh công sở, tới phụ hồ, thợ điện suốt cả gần hai mươi năm. Tới khi đứa con trai 24 tuổi, nó lập gia đình và di chuyển tới một tiểu bang xa, thì tôi tình cờ gặp lại được ông bà Năm Hương. Lúc đó hai cụ đã lớn tuổi, nhưng còn minh mẫn, cụ hỏi tôi có nhớ câu nói ngày xưa là muốn tu hành không? – Muốn lắm, nhưng cơm áo gạo tiền và trách nhiệm người cha nên tôi chưa làm được. Hai cụ có nhã ý cho tôi ngôi nhà nhỏ vốn là nhà kho này, tu sửa lại và tạo cho một công việc làm để có thể thanh thản sống cho đến cuối đời. Chơn Nhã nhẹ nhàng kết thúc câu chuyện: – Tôi bây giờ là một tăng sĩ tự tu, tĩnh tâm nhớ lại và ôn tập các lời dạy của Ân sư ngày xưa, đã hiểu ra quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường. 6/ Khi bị cách ly hay tự cách ly với xã hội, bỗng dưng mỗi người trở thành một ốc đảo riêng tư và vô cùng tịch mịch. Chúng ta vẫn phải ăn, vẫn phải thở nhưng dường như rơi vào nhàm chán với chính mình. Mọi chia sẻ dù vui hay buồn đều như đối diện với bốn bức vách. Ông Thành thường tự hỏi: Đó là tôi, còn bạn thì sao? Các phương tiện như điện thoại, Facebook dù có giúp ích để chúng ta biết là còn có nhau, nhưng vẫn chưa đủ để mỗi người được sống trong một xã hội như ta vẫn từng sống. Đại dịch xảy ra đem tới những hậu quả thảm khốc cho nhân loại, từ Đậu Mùa, Dịch Tả, Dịch Hạch, mỗi đợt dịch số lượng người chết có khi lên tới nửa triệu người, nhưng chưa có đại dịch nào có số lây lan rộng khắp như đợt dịch Covid này. Mỗi cá nhân phải tự bơi, và cũng có người cũng tự chết chìm trong cô độc. Khi tạm biệt và lái xe về nhà, Ông Thành bỗng giật mình khi nhớ lại câu chuyện thật dài của Chơn Nhã. Chấp nhận nghịch cảnh, dưỡng tâm an lạc và quán Thân bất tịnh, quán Thọ thị khổ, quán Tâm vô thường, quán Pháp vô ngã. Dường như Chơn Nhã đang thay lời Sư Ông Chùa Núi gửi cho mình những điều khai thị giữa mùa dịch bệnh. Ông Thành nghĩ rằng mình sẽ còn phải lên thăm Chơn Nhã nhiều lần. Tháng 9/2020 |
| Trang Thơ Nguyễn Minh Nữu |
| LỜI CHÀO NĂM MỚI Sẽ như tia nắng bất ngờ Sau cơn bão tuyết mịt mờ canh thâu Nỗi lòng chôn dấu đã lâu Hôm nay hiểu đến thâm sâu nỗi lòng Môi trầm hương, mắt bao dung Mỗi người là một phần chung mỗi người Về ngồi đây cạnh nhau thôi Mà nghe rộng suốt một đời cho nhau. Nguyễn Minh Nữu |
| Về lại Saigon sau 20 năm Ta đã về đây lòng Đại Lộ Thênh thang mà dạ chắt chiu buồn Đăm đăm đôi mắt người thiên cổ Vẫn dõi theo ta tới ngọn nguồn Thoáng thế hai mươi năm khốn khổ Mắt lệ ai, mà mưa vẫn tuôn Cây đứng sao hiu hắt một mình Lá rơi từng cặp lá song sinh Ta về đứng ngẩn soi gương nước Thấy bóng trăng che nhạt bóng mình Buồn quá tay nâng ly rượu đắng Gọi người phiêu lãng kiếp nhân sinh Hành trang chỉ có vài trang giấy Hồn Đường thi vọng rất hoang mang Lưng nghe đã mỏi mòn sông núi Chiêu niệm người đưa bóng hạc vàng Về đây lòng vẫn ngoài biên tái Đốt nén hương thương chuyện lỡ làng Ta đã về đây vuông chiếu cũ Thù tạc dường như thiếu mấy người Ngâm lại câu thơ tình đắm đuối Bật cười như chuyện tiếu lâm thôi Thả xuống giữa bàn hoa giống lạ Chờ xem năm tới sẽ đâm chồi. Nguyễn Minh Nữu |
| Tưởng Chỉ Mưa Thôi Mới đầu tưởng chỉ mưa thôi Ai ngờ bão nổi một thời oan khiên Đôi ta kẻ trốn người tìm Vui chung thì ít buồn riêng lại nhiều Khóc sao cho hết tịch liêu Nửa khuya nhìn ánh trăng treo bồi hồi Mới đầu tưởng chỉ quen thôi Ai ngờ nghiệp chướng kéo đời trăm năm Chẳng ai biết được ai lầm Nhưng trăn trở cả hai nằm không yên Nhớ thì nhớ suốt ngày đêm Càng thương tưởng lại càng thêm ngậm ngùi Mới đầu tưởng chỉ vui thôi Ai ngờ buồn đến đến rã rời thịt da Cám ơn kẻ bỏ đi xa Cho ta biết vị muối pha trong lòng Ở đây thừa cái lạnh lùng Thế mà nhớ kẻ nghìn trùng …lại thương … Thương sao cho được mà thương Nguyễn Minh Nữu |
| LỜI CHÀO NĂM MỚI Sẽ như tia nắng bất ngờ Sau cơn bão tuyết mịt mờ canh thâu Nỗi lòng chôn dấu đã lâu Hôm nay hiểu đến thâm sâu nỗi lòng Môi trầm hương, mắt bao dung Mỗi người là một phần chung mỗi người Về ngồi đây cạnh nhau thôi Mà nghe rộng suốt một đời cho nhau. Nguyễn Minh Nữu |
| CÔ BẠN LỐI XÓM HỒI XƯA Em vừa qua tuổi thanh xuân Lời yêu vẫn đậm, tình thân thêm dày. Cơm chiều cạn, chuyện còn đầy Có đêm quấn quýt có ngày quẩn quanh. Tôi già như vách cổ thành Đá trơ mặt với rêu xanh bốn mùa Hỡi cô lối xóm hồi xưa Bên nhau bao lượt nắng mưa trong đời. Ngày xuân xin gửi một lời Chúc em và chúc cả tôi: Ngọt Ngào. Nguyễn Minh Nữu |

| Về giữa Saigon Về giữa Saigon, nhìn ra bốn phía Sao thấy lòng mình chia như nhánh sông Quốc lộ 13 đi về phía Bắc Qua hầm Thủ Thiêm để miết về Đông Người bạn nước ngoài cầm bản đồ còn đi lạc Ta thuộc nằm lòng đường phố cũng long đong. Về giữa Saigon, nhìn ra bốn phía Xa lạ mặt người thấm thía lưu vong Xa cảng Miền Tây về phía Nam đất nước Thấy được rất nhiều mà hiểu được bao nhiêu Như cơn gió thổi giữa đồng bát ngát Mái nhà tranh phơ phất khói lam chiều Về giữa Saigon, nhìn ra bốn phía Từ Hốc Môn về bỗng một cơn mưa Ai đã nói một dòng sông giữa phố Mà dắt xe đi, sóng vỗ nhịp mông người Kỳ lạ quá những mảnh đời chịu đựng Bình thản sống chung với Lũ quen rồi Về giữa Saigon, nhìn ra bốn phía Thấy cả hân hoan chen với ngậm ngùi Đàn cá nhởn nhơ dưới dòng Nhiêu Lộc Đứng trên bờ cả trăm kẻ đứng câu Dòng kênh đen đã chuyển dần trong đục Nhưng chuyển thế nào được một nghĩ suy. Về giữa Saigon, nhìn ra bốn phía Dâu biển lòng người hoang phế bao năm Lối cũ rêu phong mắt đằm giọt lệ Không chỗ cho người thất thế dừng chân Hiu hắt quá ngựa xe đời hỗn độn Ngơ ngác bóng người, trộn với bóng bâng khuâng Về giữa Saigon mà chân bước chênh vênh Chịu lạc lối ngay trong thành quách cũ. Nguyễn Minh Nữu |

| Về Biển Đông Về biển Đông mà nghe tiếng dân Chài Lòng quặn đau soi vết thương bao ngày xưa ra khơi một khoang đầy tôm cá ríu rít cười con thuyền Việt Nam ơi Nay ra khơi là thuyền đi với kinh hoàng Máu đã ứa trào vào biển mặn nát tan ra khơi tung lưới giữa trời tay không sao chống súng dài buồn con người mà quê hương từ nan Ngoài xa thấp thoáng con thuyền về tả tơi vết thương không nụ cười không tôm không cua còn nước mắt chúng cướp hết rồi người thân ơi Vó lưới đã đành viễn khơi giữ lấy xác người thôi đành biển bây giờ còn Việt Nam nữa không? Về Biển Đông còn đâu sóng xô bờ Mùa bội thu nghe đã xa mịt mờ khi ra khơi mà đôi giòng nước mắt Biết thế nào …con thuyền Việt Nam ơi Bao nhiêu năm rồi từng đêm khát khao chờ sao cho yên bình vùng biển trời nước ơi Nguyễn Minh Nữu |
| Ở Times Square, New York Giữa cả ngàn người ở Times Square. Em ở phía nào sao anh không thấy Thấp thoáng rất quen ở quanh đâu đấy hơi thở ai thơm mùi biển Thái Bình Giữa cả ngàn người, cả trăm ngữ điệu Hòa lẫn chật đường New York chiều nay Làm sao anh gặp được cái đắm say Của cái ngày xưa mưa bay Đà Lạt Ở Times Square chiều nay bát ngát Có kẻ lạc đường chân bước phân vân Mặt trời xuống rồi đêm Manhattan Nhiều lần anh quay về sau tìm kiếm Người rất đông người mà sao quá hiếm Một đôi mắt huyền đăm đắm trông ngang Anh vẫn là anh một khách lang thang Quanh quẫn mãi giữa hàng hàng lớp lớp Ơi nỗi ưu phiền chén đời quá hớp New York đêm về ngợp bóng đèn loang Em ở đâu rồi Châu Á hồn hoang Giữ lấy lòng anh một chàng lãng tử. Nguyễn Minh Nữu |
| Ở NHÀ MÙA CÁCH LY. Thơ Nguyễn Minh Nữu. XEM TRANH Đứng trên đỉnh núi nhìn qua núi Đìu hiu mây trắng níu chân chim Về đây ta đã như cây cỏ Ngắm bóng hoàng hôn lặng lẽ chìm. (Xem tranh Lặng Lẽ của Đinh Trường Chinh) ĐỌC TRUYỆN Ghế đá dường như có trái tim Đường khuya nhói lạnh bước chân đêm. Cúi đầu thật thấp trong sương giá Cảm tạ đời trong vạn nỗi niềm.. ( Đọc truyện Nỗi Cô Đơn Của Đá của Minh Ngọc) ĐỌC THƠ Những cánh cửa xưa đóng lại rồi. Trên phone còn giọng nói xa xôi Thèm ly vang đỏ đồi sương trắng Thèm được hồn nhiên rộn rã cười. (Đọc bài thơ Bốn Năm Sau Ngày Anh Đinh Cường Ra Đi của Phạm Cao Hoàng) ĐI DẠO Che mặt bằng khẩu trang Chân mang giầy đi bộ Đi nhanh quanh khu phố Vắng bóng người lang thang Hoa rợp bờ hiu quạnh Nắng thấp bờ tây phương Một bóng cây vất vưởng Một bóng người tha hương. (Tháng 4/2020, qua rừng Belinger) CÒN VÀ MẤT Người hát “Tình Hoài Hương” đã mất Mà “Tình Ca” vẫn tha thiết “tôi yêu” Ngắt nhánh hoa hồng bên vườn nhỏ Tiếc nuối đời sau tiếc nuối nhiều. (Ca Sĩ Thái Thanh từ trần ngày 17/03/2020) NHỚ BẠN “Níu cao nguyên” xuống không tìm được (*) Khuya ôm đàn hát tráng bi ca. Bên hồ thông dựng như quân đứng Gươm cùn, ngựa mỏi gối phong ba Bên đồi nhớ lắm chiều hôm ấy Dáng người như một bóng mây xa (*) Với tay cao hết sức mình. Níu cao nguyên xuống để nhìn thấy em. Thơ Nguyễn Dương Quang. NDQ mất ngày 29/04/2020) ĐÙA NGHỊCH VỚI MÀU Khi vẽ một dòng sông Nhìn như một cánh đồng Điểm thêm vài nhánh lúa Thành hoa vàng mênh mông. Đôi mắt đậm mầu nâu Thêm chút xanh lá mạ Mặt người sao thấy lạ Mang tia nhìn yêu ma Trắng nhạt làm sương bay Phủ thân người huyền hoặc Những thần linh dấu mặt . Ẩn mật qua kẽ tay Đêm hóa thành cánh bướm Hỏi người, em có hay. NGUYỄN MINH NỮU Tháng 5/2020 |
| Tách chè thơm buổi sớm mai Nâng tách chè thơm buổi sớm mai Dáng người như một vệt sương phai Lẫn vào hương thoảng trầm hương cũ Lẫn cả hương đêm lúc rạng ngày. Là lúc thời gian đọng giữa chừng Không gian dường cũng rất mông lung Mẹ nối bây giờ cùng quá khứ Và gửi tương lai một tấc lòng Con quấn trong chăn, đã dậy rồi Nhưng nằm mở mắt ngắm xa xôi Quanh con như lớp tơ mềm óng Chỉ thở mà ngân tiếng nhạc vời Thấp thoáng hương bay cuốn bệ thờ Ánh mắt Cha nhìn như ánh thơ Con thấy Mẹ nâng tay tách nước Sao nghe rung động suốt mơ hồ Thinh lặng giữa đôi bờ hư thực Hương chè mạn lục thoảng qua môi Hắt hiu một bóng soi trên vách Mà khay vẫn có tách song đôi. Những sớm mai kia, có chẳng nhiều Mẹ già bạc tóc với cô liêu Con thì phiêu bạt theo năm tháng Đắng lưỡi tê môi với sớm chiều. Đời con rồi ghé vào hưng phế Đã biết bao nhiêu cuộc đổi dời Tĩnh tâm chỉ có khi ngồi lại Sớm mai nhớ Mẹ, tách chè thôi. Sớm mai bên Mẹ tách chè thôi Tâm nhẹ nhàng theo dáng mẹ ngồi. Nguyễn Minh Nữu |
| Rất Nhiều và Những Rất nhiều những tách cà phê Chẩy tan vào những đêm khuya một mình Rất nhiều những lúc một mình Chẩy tan vào những tự tình cà phê Rất Nhiều và Những Rất nhiều những tỉnh những mê Chẩy tan vào những tái tê giọt buồn Rất nhiều thơ đã khởi nguồn Chẩy tan vào đất, chạy tuôn vào lòng Rất nhiều những nỗi chờ mong Chẩy tung tăng những long đong phận người Rất nhiều lời nói trên môi Chẩy trong quên lãng nên người xa tôi. Nguyễn Minh Nữu |
| Nguyên Đán ở bờ đông Hoa Kỳ Hôm qua Gió Bắc Băng Dương Về đây lạnh cả chiếu giường tân niên Phòng xuân Ngỡ đã cài then Lả lơi Còn có bóng đèn thức khuya Từ khi chung lối đi về Chịu chung cay đắng sớt chia mặn nồng Cái gọi là chút tình chung Là nơi nương dựa Sưởi lòng tha hương Hôm qua gió Bắc Băng Dương Đưa duyên Trừ tịch Bén hương Giao thừa Bên kia ngày đã sang mùa Mà đây Nguyên đán vẫn chưa xuân thì Riêng Lòng còn chút hồ nghi Xuân sao? Lạnh gió thổi về hôm qua Mguyễn Minh Nữu |
| Mênh mông trời Bất Bạt Bất bạt ngừng ngay giấc ngủ ngày Yên Kỳ ngàn mộ mở vòng tay Đón tên phiêu bạt bao năm cũ Mềm lòng quay lại cố hương đây. Thắp nén nhang thơm ở giữa đồi Nghe lòng thương nhớ đã trùng khơi Xa trong cõi khác người quay lại Rộng lượng Ba Vì , mây trắng thôi. Muốn khóc lên cho nhẹ ngậm ngùi Xin quỳ để thấy xót xa nguôi Ai xui chim Việt về Nam nhỉ Bốn chục năm trường nhạn lẻ đôi. Nắng mới triêu dương trời đã tối. Chồi chưa đủ lá đã phong ba Lưu thân đi những phương xa lạ Tiếp mạch thư hương, giữ nếp nhà. Muôn dặm thiết tha hồn lữ thứ Nồng nàn hương sắc Thủy tiên xưa Trước mộ tâm dâng lời khấn nguyện Nối dòng, xin nối lại dòng thơ. Sơn Tây, Sơn Tây mưa lê thê Đời sao hứa được lúc ta về Gói cả núi đồi vào ký ức Ta nhớ, và Sơn Tây nhớ nghe. Nguyễn Minh Nữu |
| Thơ Tháng Giêng Tháng Giêng tôi về trên những bờ xanh Cảm khái ngân dài câu vọng cổ Trăng đã qua cổ độ biết bao lần Chân ngại ngùng và lòng rất phân vân Lời em nói có bao phần sự thật. Đời bóng xế, xá gì còn với mất Hiu quạnh riêng, chật vật một đời chung Hãy cứ bay đi, cánh én muôn trùng Không đáng kể gì với người tuyệt lộ. Cảm khái ngân dài câu vọng cổ Trên giòng chia, sóng vỗ điệu hoài lang Đã mười năm sao còn rất hoang mang Nghe ai oán còn hơn lời ly biệt Trau chuốt làm chi những giòng chữ viết Khi tim người tận tuyệt nỗi chờ mong Từ lúc xa người là khởi điểm lưu vong Không ai sống một đời cho ký ức. Cảm khái người ơi cõi nào tỉnh thức Gửi cho nhau như lời chúc an lành Tháng Giêng tôi về trên những bờ xanh. Về nơi chốn đã rời xa Sóng xô bạc tóc tự bao giờ Về ngồi ôn lại chuyện xa xưa Bằng hữu đếm không đầy những ngón Tay khô điếu thuốc rụng ơ hờ. Những tưởng một xa là mất cả Con sông dòng cũ, bóng đò đưa Ở giữa tim người là sóng dập Dồn từng tiếc nhớ xuống trang thơ. Đã biết bao phen dừng gót lại Quê người nâng chén uống khơi khơi Đâu cứ phong sương thì mới lạnh Đêm nay nghe buốt đến tê người. Thí dụ, chỉ là thí dụ thôi Bất ngờ từ một chốn xa xôi Người xưa về trước thềm năm cũ Sảng khoái thơ vang một góc trời Thí Dụ, chỉ là thí dụ thôi Mà lòng rào rạt mấy trùng khơi Đâu cứ phong sương thì mới lạnh Đêm nay nghe buốt đến tê người Nguyễn Minh Nữu |
| Gửi cái Hường Nhan Hường nhan em là đôi mắt lanh đen Ngơ ngác nhìn anh , em đóng phim hiền Nhưng dấu thế nào được tia tinh nghịch Chỉ liếc qua thôi anh đã biết liền. Đôi mắt theo anh vào đêm mất ngủ Nhớ mãi một người người rất hay quên Hường nhan em là vạt tóc ngang vai Vạt tóc như mây vạt tóc không dài Bởi vạt tóc thiếu một bàn tay vuốt Nên em cứng đầu như con gái Hà Tây Anh ở đây giữa mùa thu nước Mỹ Giữa gió lộng trời cuốn lá vàng bay Thấy ngây ngất giữa núi đồi hùng vĩ Thấy mây trời lòng lại như say Hường nhan em là giọng nói rất nhanh Giọng cao vút làm anh ngơ ngác ngó Ríu rít như chim, suối rừng lá cọ Bỗng chuyển giọng trầm mưa rạt rào quanh Tiếng em nói mà sao như cơn lũ Cuốn đời anh vào sóng nước âm thanh Hường nhan em là những cái rất riêng Như Sinh Nhật giữa công viên buổi sáng Như nét buồn một thoáng lại cười vui Em dấu cho em một chút ngậm ngùi Chút ký ức ngây thơ thời trẻ dại Em đã yêu chưa hỡi người con gái Anh đang về trở lại tuổi thanh niên Anh đang về trở lại tuổi thanh niên Để bắt đầu yêu một người nữ không hiền Nguyễn Minh Nữu |
| Thi phẩm của văn thi sĩ Nguyễn Minh Nữu được phổ nhạc |


Thơ của Nguyễn Minh Nữu- Nhạc Nguyễn Ngọc Linh
Hòa âm và trình bày: Minh Đăng
Clip: Trung Nguyễn

Thơ Nguyễn Minh Nữu
Nhạc: Nguyễn Ngọc Cẩn
Tiếng hát của NHÓM BOY BAND K6
Clip: Trung Nguyễn
Thơ của Nguyễn Minh Nữu– Nhạc : Nguyễn Ngọc Linh
Trình bày: Đinh Việt Hùng
Clip: Trung Nguyễn
Thơ của Nguyễn Minh Nữu- Nhạc Nguyễn Ngọc Linh
Tiếng hát của ca sĩ Vân khánh
Clip: Trung Nguyễn
| Tưởng Chỉ Mưa Thôi TuongChiMuaThoi_ThanhHung_Final.mp4 Mới đầu tưởng chỉ mưa thôi ai ngờ bão nổi, một thời truân chuyên. Đôi ta kẻ trốn người tìm Vui chung thì ít buồn riêng lại nhiều. khóc sao cho hết tịch liêu nửa khuya nhìn bóng trăng treo bồi hồi. Mới đầu tưởng chỉ quen thôi ai ngờ nghiệp chướng kéo đời trăm năm Chẳng ai biết được ai lầm nhưng trăn trở cả hai nằm không yên Nhớ thì nhớ suốt ngày đêm càng thương tưởng lại càng thêm ngậm ngùi. Mới đầu tưởng chỉ vui thôi ai ngờ buồn đến rã rời thịt da cám ơn người bỏ đi xa cho ta biết vị muối pha trong lòng. Ở đây, thừa cái lạnh lùng thế mà nhớ kẻ ngàn trùng lại thương… Thương sao cho được mà thương…. Nguyễn Minh Nữu |

