
| Tiểu Sử Bút hiệu: Võ Phú (văn) & Y Thy/i (thơ). Võ Phú sinh ngày 10 tháng 11. Sinh quán Nha Trang – Việt Nam; định cư tại Virginia, Mỹ tháng 9 năm 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa và làm việc tại Virginia Commonwealth University. • Chủ nhiệm và chủ bút tạp chí Kết Ðoàn 2002-2008. • Ðiều hành nhà xuất bản Kết Ðoàn 2002-2004. • Góp mặt trong các báo, đặc san, tạp chí, thi đàn, như: Suối Nguồn, Hồn Quê, Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, Kỷ Nguyên Mới, Văn Hữu, Cỏ Thơm, Ngôn Ngữ… • Góp mặt trong các tuyển tập thơ Cụm Hoa Tình Yêu, Tình Thơ Mùa Xuân, Tình Thơ Mùa Thu, Tình Thơ Quê Hương, 44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2019)… Sách đã in: Văn: – Xóm Chài – Lotus Media – 2022 – Nước Mỹ: Những Mảnh Ghép Rời – Nhân Ảnh – 2020 – Vấn Vương (viết chung với Mai Ngọc Lan) – Kết Ðoàn – 2004 – Tưởng Như Ðã Mất – Suối Nguồn – 2003 Thơ: – Lạc Vào Cõi Thu – Nhân Ảnh – 2021 – Ngày Tháng Có Nhau – Văn Học Mới – 2018 – Những Phương Trời Nhớ (thơ 10 tác giả) – Kết Ðoàn – 2004 – Ðời Chia Trăm Nhánh Sông (thơ 6 tác giả) – Suối Nguồn – 2002 – Rằng Ta Ðang Yêu – Suối Nguồn – 2001 – Cung Ngữ (thơ 10 tác giả) – Suối Nguồn – 2001 Giải thưởng văn học: – Giải Viết Về Nước Mỹ: 2021, 2019, 2017, 2005 – Giải nhất thơ văn – University of Maryland – 2001 Y Thy Võ Phú https://www.facebook.com/ythy.phuvo phuvophotography@gmail.com |
| Các tác phẩm đã phát hành: |

















| Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người– Võ Phú Nguyễn Quốc Huy Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người là tập truyện thứ hai của Võ Phú viết về cuộc sống tại Mỹ, nối tiếp quyển Nước Mỹ: Những Mảnh Ghép Rời. Tác phẩm tiếp tục mở ra những câu chuyện đời thường, giản dị nhưng đầy chiều sâu, về nước Mỹ. Mỗi câu chuyện không chỉ phản ánh cuộc sống hàng ngày mà còn ẩn chứa những suy ngẫm sâu sắc về xã hội và con người. Tập truyện không chỉ dành cho những ai đang sống tại Mỹ mà còn cho tất cả những ai yêu thích khám phá những câu chuyện đời thường đầy ý nghĩa. Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người hứa hẹn sẽ khiến người đọc say mê, bởi từng trang viết giản dị mà chứa đựng những cảm xúc và triết lý sâu sắc về cuộc sống. Với Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người, Võ Phú đã khắc họa cuộc sống nơi đất Mỹ một cách chân thực và sắc nét. Những câu chuyện không chỉ phản ánh đời sống của người Việt tại Mỹ mà còn dẫn dắt người đọc vào hành trình khám phá văn hóa và sự hội nhập trong một xã hội đa dạng và đang thay đổi từng ngày. Các câu chuyện của Phú không chỉ đơn giản là những mẩu chuyện về cuộc sống, mà còn là những câu hỏi lớn về bản sắc, về sự khác biệt văn hóa và quá trình hòa nhập của những người mới đến. Điều đặc biệt trong Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người là sự gần gũi trong cách viết của Võ Phú. Từ những chi tiết đời thường như đi chợ, gặp gỡ bạn bè, trò chuyện với hàng xóm, tác giả tạo ra những cơ hội để bộc lộ sự quan sát tinh tế về những thăng trầm trong xã hội hiện đại. Mỗi câu chuyện là một mảnh ghép trong bức tranh tổng thể về nước Mỹ, giúp người đọc nhìn thấy những góc khuất ít ai để ý, nhưng lại là phần không thể thiếu trong việc hiểu rõ hơn về đất nước và con người nơi đây. Bằng giọng văn nhẹ nhàng nhưng đầy tính nhân văn, Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người không chỉ là một tập truyện ngắn mà còn là một cuốn nhật ký sống động, ghi lại những suy ngẫm, cảm xúc và trải nghiệm của tác giả. Đọc cuốn sách này, người đọc sẽ nhận ra những mảnh ghép trong chính cuộc đời mình, dù là ở Mỹ hay bất cứ đâu. Đây là một tác phẩm không chỉ dành cho người Việt xa xứ mà còn cho tất cả những ai yêu thích sự giản dị nhưng đầy chiều sâu trong cách nhìn nhận cuộc sống. Với Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người, Võ Phú không chỉ viết về những câu chuyện đời sống mà còn viết về chính chúng ta, những người đang tìm cách hòa nhập, hiểu và yêu thương thế giới xung quanh. |






| Trang Thơ Văn của tác giả Y Thy Võ Phú |
| Các tác phẩm văn xuôi của Văn thi sĩ Y Thy Võ Phú ( Xin vui lòng bấm vào link bên dưới để thưởng thức) 1.BUỔI CHIỀU HOÀNG HÔN Ở KIPTOPEKE-Y Thy Võ Phú 2. CHUYỆN CON CHIM-Y Thy Võ Phú 3. CÁ LONG HỘI-Y Thy Võ Phú 4.NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU Ở XÓM BÓNG-Y Thy Võ Phú |
![]() Sự Tích Hoa Thủy Tiên Chuyện rằng nhà nọ bốn con Người cha đau yếu chỉ còn chút hơi Trước khi nhắm mắt lìa đời Các con hãy nhớ lấy lời của cha Tiền tài của cải chia ra Bốn phần đều đặn mới là con ngoan Tuy nhiên chôn cất vừa tròn Ba người anh lớn dành hơn phần nhiều Chừa em mảnh đất tiêu điều Khô cằn nứt nẻ rất nhiều cỏ hoang Em buồn lệ rớt hai hàng Bổng đâu xuất hiện một nàng tiên xinh Bảo rằng mảnh đất nhà mình Một kho tàn quý ẩn mình dưới sâu Khi Xuân đến, sẽ trổ màu Ðem hoa bán lấy làm giàu khó chi! Y Thy Bốn đóa hoa Thủy Tiên quanh nhà – 021523 |
![]() Xuân Bên Vườn Hoa Lewis Ginter Trời xanh màu nắng thiên thanh Trong vườn dạo bước độc hành tìm vui Bên chân hoa cỏ mỉm cười Thủy Tiên vẫy gọi vui tươi đón chào Ô kìa Xuân đến rồi sao Cây khô tỉnh giấc vươn cao trẩy mầm Dưới lòng đất, dế gọi thầm Tỏ lời tình tự ái ân xoay vòng Bây chừ chưa hết mùa Ðông Xuân nay đến sớm trong vườn muôn hoa Hương nồng ủ kín Ðông qua Từ dòng đất lạnh thở ra với đời Ngắm nhìn cảm nhận người ơi Vàng ươm cánh mỏng tuyệt vời vẫy tay Sương hôn má phấn hây hây Hoa cười e ấp ngất ngây lòng người. Y Thy Lewis Ginter Botanical Garden 021323 |


| Xuân Giáp Thìn Năm mèo chậm chạp đã đi qua Trước ngõ rồng con ghé tới nhà Rộn rã đì đùng bên tiếng pháo Giòn tan nhộn nhịp với lời ca Trên bàn sắp đặt nhiều hoa quả Dưới bếp bày ra đủ thịt thà Mở cửa chào xuân mừng phú quý An nhiên tự tại thế kia mà. Y Thi 012624 |
| Chúc Xuân Một chậu hoa Đào trước gió Xuân Mang Xuân rực rỡ biết bao phần Tầm Xuân hé nụ bên khung cửa Dạ Lý chào Xuân cạnh kẽ gân Tuyết trắng mừng Xuân đùa kẻ sĩ Xuân hồng đón Tết cợt thi nhân Ngày Xuân mấy chữ xin trao đến Gửi chút hương Xuân đối với vần Y Thi |
| Ngày Xuân Hoa Lá (Ngũ độ thanh, thủ nhất tự) Tết lại về bên những cỏ cây Trong nhà rực rỡ Cúc vàng lay Trầm Hương gỗ đỏ cành chưa rụng Thạch Thảo hoa mềm cánh đã bay Trộm nhớ Anh Ðào sao tỏ rõ Thầm thương Cẩm Chướng ngại phơi bày Tình sâu nghĩa nặng luôn bền bỉ Thắt chặt nhau vào mãi chẳng thay Y Thi |
| Giáp Thìn Khủng Long Tai bò mắt thỏ móng chim ưng Vảy cá liền vây dọc sống lưng Bụng ếch thân thon nhìn khiếp sợ Sừng hươu miệng rộng thét vang lừng Chân to tựa hổ trông anh dũng Lưỡi bự như lân thấy đỏ bừng Cổ rắn bờm dài răng cửa nhọn Đuôi luôn chuyển hóa mãi không ngừng Y Thi 012424 |
| Xuân Thủ nhất thanh Xuân tới trần gian thật tuyệt vời Xuân này ấm áp khắp muôn nơi Xuân tìm hạnh phúc trao nhân loại Xuân chọn bình an gửi mọi người Xuân tỏa hương thơm chừng chẳng cạn Xuân tràn mật ngọt mãi không vơi Xuân mang khát vọng luôn nồng cháy Xuân nhuộm tình yêu đến hết đời Y Thi |
| Từ Công Viên Đá Tiên Đến Hồ Claytor Quanh co đồi núi cheo leo Con đường số 8 vượt đèo vờn mây Sương mù che khuất rừng cây Mắt nhìn phía trước đôi tay vững vàng Chiếc xe cũ kỹ cà tàng Ì à ì ạch la làng van lơn Vượt qua ngọn núi mừng rơn Xuống đồi ta thấy khỏe hơn được tiền Rời xa công viên Đá Tiên* Ta đây tìm đến công viên Claytor Nơi đây mây phủ sương mờ Một hòn đảo nhỏ nên thơ trữ tình Mênh mông bãi cát trắng tinh Xa kia vài mái nhà xinh bên hồ Căn chòi thủy tạ điểm tô Rì rào sóng vỗ nhấp nhô mạn thuyền. Y Thi 062323 *Fairy Stone State Park. |
| Lộc VÕ PHÚ Tôi biết Lộc khi tôi dạy tiếng Việt ở trường Việt Ngữ Huệ Quang. Lộc cao và hơi ốm với mái tóc dài chẻ hai, che khuất mắt, phủ tới miệng. Ở trong lớp, Lộc hay thả cho mái tóc phủ kín mặt. Lộc không muốn cho người khác nhìn thấy mặt mình. Lộc là cậu thanh niên cao và lớn tuổi nhất ở lớp tiếng Việt, do tôi dạy. Ngày đầu tiên vào lớp, tôi viết tên mình lên bảng và tự giới thiệu. Sau đó, tôi gọi tên từng em để các em giới thiệu về mình. Ngoài tên, tuổi, trường các em đang theo học, tôi cũng nhắc các em cho chúng tôi biết vì sao các em lại đến với lớp Việt Ngữ này. Khi tới phiên Lộc, Lộc giới thiệu về mình, rất ngắn gọn: – Lộc. 15 tuổi. Lớp 10 trường Glen Allen. Lộc không thích đi học tiếng Việt, nhưng mẹ bắt học để nói chuyện với bà ngoại còn ở Việt Nam. Cũng như Lộc, hầu hết những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở bên Mỹ này đều không muốn đi học tiếng Việt. Tôi hiểu và thông cảm với các em nên tôi cố gắng trò chuyện với các em. Ðôi khi tôi nói cả chuyện với các em bằng cả hai ngôn ngữ để cho các em hiểu rõ hơn. Tôi dạy không theo sách vở mà theo yêu cầu của các em muốn học về đề tài các em muốn tìm hiểu. Ở trường Việt Ngữ tôi dạy, được chia ra thành sáu lớp từ lớp mẫu giáo đến lớn năm. Tôi dạy lớp bốn, một lớp mà các em đã biết đọc và viết. Trong lớp tôi có chín em đang học, các em từ 11 đến 12 tuổi. Chỉ có Lộc là 15 tuổi. Lý do Lộc lớn tuổi hơn các bạn trong lớp là vì Lộc đã ở lại lớp này ba năm. Năm đó là năm đầu tiên tôi dạy tiếng Việt ở trường này. Trước khi nhận lớp, tôi được các thầy cô giáo những năm trước cho tôi biết sơ về Lộc. Lộc không được lên lớp như các bạn là vì Lộc không chịu làm bài hay nộp bài. Mỗi ngày đến lớp, Lộc đều gục đầu xuống bàn ngủ hay hí hoáy vẽ vời chứ không để ý gì đến bài vở. Lộc chán ghét lớp Việt Ngữ. Khi được thầy cô giáo của những năm trước cho tôi biết về Lộc, tôi chú ý đến Lộc nhiều hơn. Quả thật như các thầy cô giáo nói, những buổi học đầu, tôi thấy Lộc cầm viết bên tay trái và hí hoáy vẽ. Tôi đi đến gần bên Lộc và hỏi: – Lộc cầm viết bằng tay trái hả? – Khi viết thì Lộc dùng tay phải, còn những việc khác thì dùng tay trái. Lộc thuận tay trái hơn tay phải. – Thú vậy đấy…. Thầy đọc ở đâu đó nói rằng những người thuận tay trái rất thông minh và có khiếu về hội họa. Mà Lộc đang vẽ gì vậy? – Dạ, không có gì. Lộc chán, nên vẽ lung tung thôi. – Ồ… Khi vẽ, vậy Lộc có nghe thầy giảng trên lớp không? – Dạ có, Lộc vẽ bằng tay mà. Tai Lộc có nghe. Tôi cười thầm và nghĩ đúng là con nít sinh ra ở Mỹ, nên trả lời rất thật và hồn nhiên. Có sao nói vậy người ơi. Tôi nói với Lộc: – Thầy cám ơn Lộc đã cố gắng đi đến trường học tiếng Việt. – Nhưng, Lộc không thích. Lộc bị mẹ kêu đi học. Lộc khá thông minh. Ở trường trung học, Lộc là học sinh giỏi, đạt được toàn điểm A trong các môn. Ngoài tiếng Anh và tiếng Việt, Lộc còn biết tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp. Có một hôm sau khi tan trường, trong lúc chờ phụ huynh tới đón về, lớp tôi chỉ còn lại một mình Lộc. Lộc khoe với tôi: – Thầy biết không. Lộc biết tiếng Spanish và tiếng French. Lộc học ba năm Spanish và giờ đang học French. Nhưng Lộc không thích học tiếng Việt. Tôi cười, khen cậu giỏi và thông minh. Tôi hỏi em: – Tại sao Lộc không thích học tiếng Việt? – Tại vì tiếng Việt khó. Tiếng Việt có nhiều dấu khó hơn tiếng Spanish hay French. – Thầy thấy tiếng Việt em rất khá. Lộc nghe, hiểu và trả lời thầy bằng tiếng Việt. Lộc chỉ cần chú tâm thêm chút nữa là em sẽ yêu thích tiếng Việt thôi. – Lộc ghét đến trường vào thứ Bảy. – Ồ vậy là Lộc không thích đến trường Việt Ngữ vào cuối tuần đúng không nè? – Dạ đúng rồi. Lộc không thích, nhưng mẹ cứ bắt đi học tiếng Việt vào cuối tuần. – Lộc có thử nói chuyện với mẹ chưa? – Lộc có nói. Nhưng mẹ không chịu nghe. Mẹ không khi nào chịu nghe Lộc. Mẹ busy ở ngoài tiệm nails. Mẹ không có giờ cho Lộc. – Vậy những ngày cuối tuần nếu không đi học thì Lộc làm gì? – Lộc ở nhà cousin chơi games. – Thầy biết Lộc rất giỏi và thông minh. Nếu như Lộc không thích đi học tiếng Việt cuối tuần thì em cần phải cố gắng chăm chú lắng nghe và học thật giỏi tiếng Việt để mẹ khỏi bắt Lộc tới trường nữa. Lộc đưa mắt nhìn tôi, rồi ngạc nhiên hỏi lại: – How come? (Sao có thể như vậy được thầy?) Tôi không trả lời vội, mà hỏi lại Lộc: – Em có biết trường Việt Ngữ mình đang theo học có bao nhiêu lớp không? – Dạ có sáu lớp. – Ðúng rồi. Trường mình học có sáu lớp từ lớp mẫu giáo đến lớp năm. Hiện giờ Lộc đang học lớp bốn, nghĩa là sau khi học xong lớp này, còn một lớp nữa là Lộc có thể nghỉ rồi. Lúc đó mẹ của Lộc không còn lý do gì để bắt Lộc đi học vào ngày thứ Bảy nữa có đúng không nè? – Dạ đúng rồi. – Nếu Lộc chăm chỉ lắng nghe và làm bài đầy đủ thì em chỉ cần học xong năm nay và năm tới là sẽ ra trường rồi. – Ờ héng. Sao Lộc không nghĩ ra. Lộc chỉ nghĩ khi đủ 18 tuổi rồi thì Lộc đi đại học, mẹ sẽ không bắt đi học tiếng Việt nữa. – Thầy biết em rất thông minh. Chỉ cần em siêng làm bài và chăm chú lắng nghe thì em có thể làm bất cứ việc gì em muốn. Lớp tiếng Việt này cũng đâu làm khó em được đúng không nè? Em hãy cho mẹ em thấy rằng, em làm được. Và thầy cũng tin rằng em sẽ là học sinh giỏi nhất ở lớp tiếng Việt năm nay. Thầy tin ở em. Em có tin ở mình không? – Lộc tin. Chúng tôi đang nói chuyện với nhau thì xe của mẹ Lộc đến đón về. Lộc vội vã chào tôi và các thầy cô rồi ra về. Sau buổi nói chuyện hôm đó, tôi thấy Lộc chăm chỉ học bài và làm bài tập về nhà hơn. Hết học kỳ một, chúng tôi trở lại trường sau Tết Tây. Thời gian này, tôi không dạy các em học theo sách vở, mà tôi tập cho các em hát cũng như chơi trò chơi tìm tên các loài hoa, tên các con vật, bằng tiếng Việt. Rồi chúng tôi chuẩn bị cho chương trình văn nghệ cho hội chợ Tết Nguyên Ðán ở chùa Huệ Quang. Tiết mục dành cho lớp chúng tôi là sớ Táo Quân. Trong phần sớ Táo Quân, Lộc đọc rất trôi chảy và đúng theo nhịp mà tôi chỉ dạy. Ngày hội chợ Tết Nguyên Ðán của trường Việt Ngữ cũng kết thúc, tôi mừng tuổi cho các em. Và, tôi đã thiên vị Lộc, mừng cho em nhiều nhất với lý do là Lộc cố gắng và trình diễn rất hay trong tiết mục ông Táo. Khi nhận phong bao mừng tuổi, Lộc dang tay ôm và cám ơn tôi đã dạy Lộc học tiếng Việt. Hai năm trôi qua nhanh. Thoáng chốc đã vào mùa hè. Trong buổi lễ bế giảng của trường, Lộc đứng lên đọc bài phát biểu của mình. Lộc cám ơn gia đình, thầy cô đã dạy Lộc tiếng Việt. Lộc nhắc đến những lần ngủ gục trong lớp, những buổi trưa dài lê thê đến chán chường của lớp học học tiếng Việt vào cuối tuần như là một cực hình. Nhưng giờ đây Lộc cảm thấy biết ơn gia đình và thầy cô đã dạy bảo Lộc để Lộc biết đọc và biết viết tiếng Việt, biết thêm một ngôn ngữ, mà là ngôn ngữ của mẹ, nơi mẹ Lộc được sinh ra. Trong bài phát biểu, Lộc có nhắc đến tôi. Sau khi nghe bài phát biểu cảm nghĩ của Lộc, tôi xúc động và thấy cay cay ở khóe mắt. Bài phát biểu của Lộc vừa dứt, những tràng pháo tay giòn giã từ phụ huynh và thầy cô. Nhiều phụ huynh và thầy cô còn rơm rớm nước mắt. Buổi lễ bế giảng kết thúc, tôi không còn gặp lại Lộc nữa. Thỉnh thoảng Lộc có gửi email cho tôi và cho tôi biết Lộc đang học ở trường đại học Virginia, cách nhà hơn một giờ đồng hồ. Rồi đại dịch Covid 19 bất ngờ ập tới, mọi chuyện đều đình trệ. Trường Việt Ngữ nơi tôi dạy cũng đóng cửa hai năm qua. Tôi nhớ các em ở trường Việt Ngữ. Có những hôm, tôi gọi hỏi thăm cô hiệu trưởng để biết khi nào trường mới mở cửa để dạy tiếng Việt trở lại. Sau vài lần hỏi thăm, chúng tôi có một buổi gặp mặt tại trường sau dịp lễ Giáng Sinh. Trong lúc trò chuyện về trường, về lớp, rồi lan man qua chuyện dịch bệnh, chích ngừa… Cô hiệu trưởng chợt hỏi: – Mấy thầy cô còn nhớ Lộc không? Nghe cô hiệu trưởng nhắc đến Lộc, tôi vội hỏi: – Có phải Lộc ôm ốm cao cao, tóc dài mấy năm trước học ở lớp em? – Ðúng rồi. Lộc vừa mới mất. – Trời, tại sao vậy? Covid? – Không. Lộc tự tử! – Úi Trời! Ghê vậy. Mà chuyện gì vậy chị? – Nghe nói Lộc buồn chuyện gia đình, áp lực việc học, việc làm… Lộc bị trầm cảm và tuyệt vọng một thời gian. Thầy Thanh nói: – Ở lứa tuổi lửng lơ các em suy nghĩ chưa thấu đáo dễ làm chuyện dại dột… Tôi thêm vào: – Ðôi khi mình cũng vậy, chứ nói gì các em… Cô Oanh, tiếp: – Ôi, tội nghiệp quá. Rồi sao nữa chị? – Mẹ của Lộc muốn em làm theo ý của mình là học ngành điện toán hay khoa học, nhưng Lộc lại giấu mẹ theo học về hội họa. Sau khi mẹ em biết được, bà buồn, thất vọng và có thể chì chiết gì đó nên Lộc đã mua súng để tự bắn mình. – Chuyện xảy ra khi nào vậy chị? – Cách đây vài tuần. Sau lễ Thanksgiving. – Trời! Tôi nghe tin Lộc tự tử mà chân tay tôi bủn rủn rã rời. Tôi lặng người nghĩ đến Lộc. Tôi suy nghĩ tới những nỗi đau của Lộc và gia đình khi em tự kết thúc mạng sống của chính mình. Chắc có lẽ trước khi tự sát em cảm thấy bất lực không thể tìm ra lối thoát ra khỏi nỗi đau khổ vô tận? Chắc có lẽ Lộc âm thầm chịu đựng rồi lên kế hoạch tự sát mà không cho ai biết? Phải chi Lộc chia sẻ những nỗi buồn, đau khổ của mình với bạn bè, người thân. Phải chi gia đình quan tâm em nhiều hơn một chút có lẽ em đã không rời khỏi thế gian này. Phải chi nước Mỹ kiểm soát được nạn buôn bán súng? Phải chi và phải chi … Nhưng tất cả đều muộn… Hôm nay, những ngày cuối cùng của năm cũ, chuẩn bị bước sang năm mới, tôi hy vọng rằng ở cõi nào đó, Lộc không còn đau khổ không tuyệt vọng, cô lập buồn bã. Tôi hy vọng rằng Lộc được vui tươi, mỉm cười và hạnh phúc. Và tôi cũng cầu mong gia đình em kiên cường, cố gắng động viên nhau vượt qua nỗi đau mất mát này. Y Thi Võ Phú |
| Quyển Sách Bỏ Quên VÕ PHÚ Hắn mê Nhất Linh, tác giả của nhiều tập truyện trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, như cá mê nước. Hắn mê và tôn thờ Nhất Linh như một vị anh hùng, thần tượng đời hắn. Mỗi lần đến tiệm sách, hắn đều tìm những quyển sách của Nhất Linh hay những sách nào có liên quan đến ông, để mua. Từ Mỹ hắn bay về Việt Nam, vào những tiệm sách cũ như Hồ Huấn Nghiệp trên đường Đồng Khởi và Hai Bà Trưng, Hiệu Sách Cũ ở đường Võ Thị Sao, Nhà Sách 28 Đồng Khởi, 250B Trần Hưng Đạo, những tiệm sách trên đường Nguyễn Chí Thanh…. để tìm cho bằng được những quyển sách xưa của Nhất Linh, những quyển sách mà ông viết trong cuộc đời văn nghiệp của ông. Hắn có hầu hết những quyển sách của Nhất Linh, nhưng hắn chê. Hắn bảo sách mới, in đẹp, bìa màu, nhưng những quyển ấy đều tái bản tại Hải Ngoại. Những quyển sách hắn muốn là những quyển xuất bản lần đầu, trong thời gian Nhất Linh còn sống. Cả tháng trời hắn đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, lùng sục khắp nơi để tìm mua những bản gốc của Người Quay Tơ, Xóm Cầu Mới, Lan Rừng, Nghèo, Đoạn Tuyệt… Hắn chỉ còn thiếu bộ trường thiên tiểu thuyết “Giòng Sông Thanh Thủy” nữa, nên hắn cố tìm cho bằng được trước khi trở về Mỹ. Một buổi nọ, trong một tiệm sách cũ, hắn được sự giới thiệu của người chủ quán một người tên Linh Nhất. Theo như sự giới thiệu thì ông Linh Nhất nào đó có máu đam mê sưu tầm sách cũ và cũng thích Nhất Linh, nên tự gọi mình là Linh Nhất. Hắn lần theo địa chỉ của người chủ quán đưa và đến nhà người ấy để tìm sách. Cả ngày trời hắn tìm kiếm, rốt cuộc cũng đạt được mục đích. Nhà của Linh Nhất ở trên đồi cao. Trước khi đến, hắn phải vượt qua hai con suối và đi qua rất nhiều con đường nhỏ khác. Nếu không nhờ hai đứa mục đồng dẫn đường thì có lẽ hắn không thể nào tìm ra được. Sau khi dẫn hắn tới trước cửa nhà, hai đứa mục đồng lấy tiền dẫn đường rồi quay về. Hắn đang suy nghĩ, tìm cách nào để người chủ nhà cho hắn vào và cho hắn xem sách. Trước nhà của Linh Nhất trồng rất nhiều hoa lan, có loại như con chuồn chuồn, loại như mặt người, loại như con bướm, loại như phượng hoàng, đủ loại đủ màu sắc, và có cả những loại mà hắn chưa bao giờ thấy, rất kỳ quái. Hắn có đọc qua tiểu sử của Nhất Linh, hắn biết ông ấy rất thích hoa lan và đã trồng, ghép, được rất nhiều loại hoa lan quý và hiếm. Đang loay hoay trước một chậu hoa lan lạ, hắn định đưa mũi vào ngửi, hắn chợt nghe tiếng: – Không được ngửi! Hắn quay lại, thấy người thiếu nữ trẻ, độ chừng hai sáu, hai bảy tuổi. Cô ta đội nón, che khăn mặt và đeo găng tay làm vườn. Hắn định lên tiếng. Cô gái nói: – Hoa đó không được ngửi. Hên là tôi tới kịp, bằng không chậu hoa không còn nữa. – Tôi không phải là ăn trộm, thưa cô. Hắn giải thích. – Vâng, xin ông đừng hiểu lầm ý tôi. Tôi không nói ông lấy chậu hoa này, nhưng nếu ông mà ngửi vào thì ngày mai nó sẽ vàng và bảy ngày sau thì nó sẽ chết. – Ồ… – Mà ông đến mua Lan à? – Không, thưa cô. Tôi đến để tìm ông Linh Nhất. – Ông ấy qua đời hơn ba năm nay rồi. Mà ông tìm ông ấy có chi không? – Tiếc quá! Xin lỗi cô là gì của ông ấy? – Ông ấy là gia gia của tôi. – Gia gia? – Là Nội tôi ấy mà. Mà ông tìm Gia Gia tôi có chuyện gì không? – Chẳng giấu gì cô, tôi đến đây là vì có người giới thiệu nội của cô có nhiều sách cũ, và có thể có sách tôi muốn tìm. – Vâng, nội tôi có rất nhiều sách cũ, nhưng không biết ông muốn tìm quyển nào? Của ai? – Cuốn “Giòng Sông Thanh Thủy” của Nhất Linh. – À…Tôi nghĩ chắc có, nhưng không chắc lắm. Phải đợi Gia tôi về rồi ông hỏi. – Xin lỗi cô… Khi nãy cô nói… – Nãy tôi nói chi mô? – Cô nói Gia Gia cô mất ba năm rồi… Còn Gia? – Ồ! Gia Gia là nội của tôi. Còn Gia là cha, là bố của tôi đó. – Vâng! Xin lỗi cô. Tôi hiểu sai…. Vậy chừng nào ông ấy về? – Tôi cũng không biết chắc, có thể chiều nay, cũng có thể vài ngày, nửa tháng. – Ồ! Chẳng giấu gì cô, tôi ở tận bên Mỹ về đây. Tôi không thể chờ được lâu như vậy. Hay là cô vào tìm hộ xem Gia Gia cô có những quyển sách tôi muốn không? – Ừa, cũng được. Để tôi hỏi Ma tôi thử sao. Cô gái bỏ đi vào trong. Lát sau, cô trở ra với một người phụ nữ khác. Bà ta độ chừng bốn chín, năm mươi tuổi. Chắc có lẽ là mẹ cô gái vì hai người giống nhau như khuôn đúc. Vả lại, cô ấy gọi bà là Ma. Có lẽ, Gia Gia là ông Nội, Gia là Cha, và Ma nghĩa là Mẹ? Hắn nghĩ vậy! Người phụ nữ tới bên hắn và tự giới thiệu: – Tôi là con dâu ông Linh Nhất, ông muốn tìm sách à? – Dạ vâng, thưa chị. – Nhưng chồng tôi không có ở nhà. Mọi sự trong nhà đều do ông ấy lo liệu, nhưng ông đây không có thời gian đợi chồng tôi về. Người đàn bà do dự vài giây rồi tiếp: – Thôi thì, tôi để cho ông vào tìm, nhưng muốn gì thì cũng đợi chồng tôi về, ông ấy sẽ quyết định. – Vâng, thưa chị, cám ơn chị và cô nhiều lắm. Ba người vào nhà. Người đàn bà nói với con gái: – Lan à, con kêu thằng Hoàng, dắt chú ấy lên gác để cho chú ấy xem sách. Nhớ cầm theo đèn pin để thấy đường mở cửa sổ cho sáng nhé. Đem đèn hột vịt lên đó lỡ ngã, cháy là khổ. Rồi bà quay qua hắn, bà nói: – Từ ngày ba chồng tôi mất, chúng tôi không lên gác thường. Chỉ có thằng con trai, lâu lâu nghịch ngợm, trốn lên đó đọc sách. Lan trở lại với người con trai to, cao, trẻ khoảng chừng mười tám, mười chín tuổi. Chắc có lẽ tên cậu ta là Hoàng. Hắn đang suy nghĩ. Lan nói: – Hoàng, dẫn chú này lên gác, xem có quyển sách gì đó không? – Dạ. Cầu thang lên gác làm bằng gỗ, mỗi bước đi, hắn có thể nghe tiếng răn rắc. Hắn run trong lòng, nhưng tự nói với mình là chắc không sao, không sợ! Trên gác, bụi bám đầy. Căn phòng tối ôm, chỉ vài chấm sáng lờ mờ chui vào từ khe hở của cửa sổ. Hoàng bấm đèn pin, đi đến các cửa sổ và mở tung chúng ra. Ánh sáng được dịp chạy vào, căn phòng bật lên sáng hẳn. Hắn nhìn quanh căn phòng. Phía ngoài, cạnh cửa ra vào, là những vật dụng lĩnh kĩnh, thúng, nia, khung gỗ, thùng giấy carton để bừa bộn không thứ tự. Nhưng, bên trong của một góc phòng, là những kệ sách được bày rất gọn, theo thứ tự, ngăn nắp. Dưới sàn, có vô số sách báo, tranh ảnh được chất lên thành đống. Hắn đi vội lại bên kệ sách và xem những quyển sách cũ. Có rất nhiều quyển rất xưa viết bằng chữ Hán, có quyển viết bằng chữ Nôm. Có cả từ điển Hán Việt, từ điển Pháp Nôm, và nhiều quyển sách khác từ thời Pháp Thuộc. Hắn thích sách, nhưng không chuộng những loại sách này. Hắn chỉ ghé mắt sơ qua, để rồi cũng tìm thấy được những quyển sách mà Hắn muốn tìm. Những quyển sách rất cũ của Tự Lực Văn Đoàn, để một kệ riêng. Hắn chăm chú nhìn tựa đề từng quyển. Sau khi lấy xong bộ sách Giòng Sông Thanh Thủy để qua một bên, hắn tiếp tục đọc các tựa còn lại. Quyển nào hắn cũng thấy quen và cũng đã đọc qua. Đến ngăn cuối của kệ sách là một quyển tập viết tay, trên đó viết: “Lan Đêm-Truyện Nhất Linh”. Hắn tò mò, cầm quyển tập trên tay. Lớp bụi bám đầy trên quyển tập, hắn phủi và thổi bớt lớp bụi trên ấy. Đám bụi bay đầy, hắn ho sặc sụa. Hắn nhẹ nhàng, lật trang tập đầu tiên. Trang đầu là hình vẽ của một đóa hoa Lan hình con bướm. Dưới hình vẽ có ghi chính tên của nhà văn hiện đại Nhất Linh-Nguyễn Trường Tam và hàng chữ: “Viết cho những ngày sống tại vườn Lan-Đà Lạt năm 1957.” Hắn cầm quyển tập và ngồi bệt xuống sàn nhà, say sưa đọc. “Lan Đêm” câu chuyện nói về một anh chiến sĩ yêu nước. Tuy anh là một người chiến sĩ, nhưng tâm hồn anh rất nghệ sĩ. Anh yêu thiên nhiên, cây cỏ, nhất là yêu hoa lan say đắm. Mỗi lần đi hành quân, đến nơi nào có hoa lan, anh đều ghi xuống những chi tiết về cây lan ấy. Ví như những đặc điểm, màu sắc, thân cây, địa điểm và thời gian phát hiện. Anh viết những chi tiết ấy xuống với hi vọng rằng mai sau, khi đất nước thanh bình, anh sẽ đến tìm chúng và rước chúng về trong trong vườn nhà anh. Có một lần chàng chiến sĩ lãng mạn ấy cùng đoàn quân đi qua một khu rừng. Lúc đó, mặt trời đã lặn, mọi người đều mệt mỏi và họ quyến định dựng lều ngủ qua đêm tại đây. Giữa khuya, anh thức giấc, ngửi được một mùi thơm rất dịu dàng và quyến rũ. Anh lần theo mùi thơm ấy và phát hiện ra mùi thơm đó thoát ra trên một nhành hoa lan. Đêm đó, trăng mồng một, lờ mờ. Anh không thể thấy hình dáng của cánh hoa. Anh chỉ ngửi được mùi thơm dịu thoát ra trên một thân cây cổ thụ. Càng ngửi, anh càng say mê và thiếp đi lúc nào không hay. Sáng thức dậy, anh mới biết đoàn quân đã rời khỏi từ lúc nào. Anh hối hả nối bước theo đoàn quân. Nhưng, đi được chừng vài phút, anh nghe nhiều tiếng nổ vang dội phía trước. Và, anh phát hiện ra rằng mọi người trong đoàn hành quân đều hi sinh. Anh quay trở lại tìm loài hoa lan nọ. Nhưng tìm hoài, anh vẫn không tìm ra gốc lan ấy. Anh mệt và ngất đi, cho đến khi các chiến sĩ khác đến cứu anh. Khi đất nước thanh bình, anh trở về mua một mảnh đất bên con suối mơ và bắt đầu thực hiện ước mơ trồng hoa lan của mình. Anh đi từ Nam đến Bắc để tìm lại các giống lan mà mình đã gặp khi xưa. Duy chỉ có một loài anh không bao giờ tìm được đó là hoa lan đã cứu anh trong đêm hành quân ấy. Và anh, chưa bao giờ thấy được cánh hoa lan ấy nở như thế nào. Anh đã nuôi dưỡng và ghép không biết bao nhiêu giống lan. Nhưng không thể nào gây được giống lan nào có mùi thơm giống vậy. Đến gần cuối đời, một người con gái Ekrê, người dân tộc thiểu số sống trong rừng lân cận, đến tặng anh một giò lan có mùi thơm năm xưa. Anh ngửi xong, anh ngủ. Anh ngủ và không bao giờ tỉnh dậy, ngủ giấc ngàn thu! Hắn đọc xong tập truyện và thiếp đi lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường, xung quanh là bốn bức tường trắng. Hắn đưa mắt nhìn quanh và dừng lại ở một góc phòng. Trên bàn đặt một giò lan. Giò lan mà hắn thấy trong trang đầu của quyển tập “Lan Đêm”. ====== |
| Thằng Mất Gốc Ông Toán sững sờ đứng lặng người khi nghe thằng Tony, con trai ông, nói như thét: – Mấy người lúc nào cũng nói muốn cám ơn nước Mỹ mà cứ lợi dụng kẽ hở để moi tiền nước Mỹ. Ơn gì mà ơn… Ơn tiền thì có. Nói xong, Tony mở cửa đi thẳng ra sau vườn. Cậu đóng rầm cánh cửa… Cơn gió nhẹ thổi qua. Hơi mát của những ngày cuối xuân vẫn còn quanh quẩn đâu đây, nhưng nỗi bực dọc trong người Tony vẫn chưa nguôi. Câu nói của đứa em gái còn văng vẳng bên tai về việc đi làm rồi mà vẫn còn xin thêm tiền trợ cấp thất nghiệp. Ở trong nhà, ông Toán mặt ông phừng phừng cơn giận. Ông muốn chạy ra ngoài vườn đá cho cái thằng con mất gốc này một cái. Nếu ông còn ở Việt Nam, dám có thể ông cầm rựa chém nó một phát vì cái tội hỗn hào, không coi ông ra gì. Nghe ồn, bà Tâm, vợ ông từ trên cầu thang đi xuống, hỏi: – Chuyện gì mà cha con ông rần rần dưới này? Nghe vợ hỏi, ông như người đuối nước vớ được phải phao, nói liền một mạch: – Thì thằng con của bà kìa nó nói tui lợi dụng nước Mỹ để lấy tiền. Mà tui có lấy cũng lấy tiền của Mỹ chớ có lấy tiền của ông cố nội nó đâu mà nó làm ầm lên. Bà coi có được không? Cái đồ mất gốc. – Mà chuyện gì mới được? Ông nói không đầu không đuôi tui có biết chi mà lần. Ông Toán dịu giọng kể lễ cho vợ nghe: – Thì hôm trước tui với bà nói với nó là tuần tới vợ chồng mình dìa lại với con Thủy để giữ con cho tụi nó đi làm vì tiệm nails của hai vợ chồng nó sắp mở cửa trở lại. Cái thằng đó nó đồng ý xong hết, nhưng khi nãy nghe tui nói chuyện với con Thủy, tự nhiên nó nổi khùng la tui với con Thủy một trận. Con Thủy lật đật cúp máy. Đúng là thằng mất gốc mà. – Mà ông với con Thủy nói chuyện gì mới được. – Thì con Thủy nó gọi cho tui nó hỏi chừng nào ba má dìa? Tui nói để cuối tuần. Nó hối tui với bà dìa sớm để nó chuẩn bị đi ra tiệm nails phụ chủ lau chùi, bắt kiếng chắn, sửa soạn để thứ Hai đi làm. Rồi nó kể chuyện bà chủ tiệm của nó chịu trả tiền mặt thêm mấy tuần để nó ăn tiền thất nghiệp. Tự nhiên nghe tới đó, thằng Tôn nó nổi khùng rồi nói tui với con Thủy là tham lam lợi dụng để bòn rút tiền của nước Mỹ. Bà nghĩ coi có tức không chứ? – Cũng tại ông thôi… – Tại tui? Sao lại tại tui? Tui chưa có đi làm mà sao tại tui? – Ai biểu ông nói chuyện điện thoại lúc nào cũng oang oang rồi còn mở loa cho lớn. Mở lớn chi cho nó nghe rồi nó la ùm lên? – Đụng tới quý tử của bà là bà binh chầm chập. Tui nói thiệt với bà chứ hên là nó ở đây chứ như hồi còn ở Việt Nam là tui dzớt nó vài đá rồi. Cái đồ mất gốc. – Mà chuyện tiền thất nghiệp gì mà nó đùng đùng vậy? – Thì từ lúc dịch con Covid 19 này nè, vợ chồng con Thủy nghỉ ở nhà xin tiền thất nghiệp. Tui cũng có apply và nhận mỗi tuần mà tui có nói với bà đó. Mỗi một tuần vợ chồng con Thủy, mỗi đứa tụi nó nhận được một ngàn mấy, trừ thuế ra cũng hơn chín trăm, nhiều hơn đi làm rất nhiều. Nghỉ ở nhà còn được nhiều tiền hơn, nên khi chánh phủ thông báo mở cửa để mọi người đi làm lại tụi nó không muốn đi làm liền. Tụi nó mới nói với chủ tiệm trả tiền mặt cho để xin thêm tiền thất nghiệp cho đến khi bị cắt thì trả lại check như bình thường. Nghe tới đó là thằng Tôn nó khùng lên. Nó nói tui là mang ơn, nợ nước Mỹ này nọ mà lợi dụng để trục lợi. Chỉ có cái thằng mất gốc đó mới nói vậy thôi chứ tui thấy ai cũng làm vậy hà rầm. Mình không lấy thì người khác cũng lấy. Mà mình nộp đơn đàng hoàng, chứ có phi pháp đâu mà nó làm ùm. Nước Mỹ này giàu và nhiều tiền mà. Năm bảy ngàn có thấm béo gì đâu. Mùa dịch này bọn Mỹ lời chán vì số người già chết quá nhiều. Mỹ khỏi cần phải trả tiền Social. Tui nói vậy bà thấy có đúng không? – Nói như ông vậy mà nghe được? Thằng Tôn nó nói cũng phải mà ông… – Bà lại bênh nó nữa. Đúng là con hư tại mẹ mà… – Ông với con Thủy mới hư đó. Mình mới vừa lãnh một người một ngày hai mà. Nước Mỹ đâu có bỏ đói mình đâu mà vợ chồng con Thủy còn bòn rút nữa. Với lại ông phải thông cảm cho thằng Tôn chứ. Nó qua đây từ nhỏ, nên tánh nó dậy thôi. Ông phải từ từ nói cho nó nghe, dạy biểu nó. – Dạy gì được với cái thằng mất gốc đó. Thôi bà lên trên chuẩn bị quần áo, tui chở bà dìa ở với vợ chồng con Thủy. Tui không đợi cuối tuần gì hết nữa. – Ông nói cuối tuần thì để cuối tuần chứ ông đòi dìa giờ thì ai coi tụi nhỏ cho vợ chồng nó?. – Không cuối tuần gì hết trọi. Bà khéo lo… Hồi trước khi dịch, không có tui với bà, nó cũng lo được. – Nhưng… – Không nhưng nhị gì hết… – Ông thiệt là… Có muốn gì thì cũng chờ con vợ nó dìa để vợ chồng nó tìm chỗ gởi mấy đứa nhỏ chớ. – Bà muốn ở lại thì một mình bà ở. Còn tui… Tui dìa. Tui không muốn thấy cái bản mặt thằng mất gốc đó nữa. – Thôi được rồi. Mà thằng Tôn đâu? – Nó dộng cửa cái rầm rồi ra sau vườn… Bà Tâm đi ra sau vườn tìm con. Bà thấy Tony ngồi trên chiếc ghế đu, cạnh hồ cá. Có lẽ Tony đang nhìn mấy con cá koi đang bơi lội trong hồ. Bà nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần có chuyện buồn là nó hay ra ngoài lu để ngắm cá. Bà đi đến sau lưng Tony, nhẹ nhàng gọi: – Tôn… Tony quay lại, nhìn bà: – Dạ… Má… Bà Tâm nhìn con, bà không biết bắt đầu từ đâu. Người đàn ông trước mặt bà không còn là thằng Tôn mười hai tuổi của ba mươi năm về trước. Mà là cậu thanh niên chững chạc, tóc đã điểm vài sợi bạc. Một người thân nhưng cũng xa lạ đối với bà… Bà Tâm ấp úng… – Má… – Má có chuyện gì nói với con? – Ừa… Chuyện mày với ba mày khi nãy… Giờ ổng muốn dọn về nhà con Thủy liền thay vì cuối tuần… – Dạ… Vậy thì má đi với ổng đi… – Còn mấy đứa nhỏ? – Không sao đâu má. Con với vợ con sẽ gọi vô sở nói họ đổi ca hay vợ chồng con xin nghỉ vài ngày để coi tụi nhỏ chờ lúc daycare mở cửa rồi tụi con đem gởi… – Má… Má… không biết nói sao… Nhưng… – Con không hiểu được ba với con Thủy nghĩ gì. Vợ chồng con Thủy đâu có nghèo. Tụi nó cũng dư ăn dư để, vậy mà còn tính bòn rút của nước Mỹ. Còn ba nữa. Ba nghe nó nói ba cũng không khuyên còn nghe theo nó tiếp tục xin thêm tiền thất nghiệp… – Thì ổng thất nghiệp thiệt mà… – Con biết, nhưng đi làm lại rồi mà còn muốn lấy thêm… Vậy mà cứ nói là yêu nước Mỹ. Nhớ ơn nước Mỹ cưu mang này kia nọ. Con nghe phát bực. – Tại con sống ở đây từ nhỏ nên không biết chứ người mình nghèo nên khi có tiền thì… – Nghèo là hồi còn ở Việt Nam kìa má. Giờ mình ở Mỹ rồi đâu có nghèo. Không có tiền thất nghiệp tụi nó cũng không có đói. Bòn rút thêm chi khi nước Mỹ gồng mình trong cơn đại dịch này… Nhưng mà thôi… Ngưng một chút, rồi Tony tiếp: – Má lo thu xếp dọn đồ về trên đó với vợ chồng con Thủy đi chứ không khéo ba lại la má. – Ừa… Vậy má thu dọn xong, chờ con Tina về rồi ba má đi. – Dạ. Bà Tâm trở vô nhà rồi đi lên phòng. Lúc vào phòng, bà thấy ông Toán đang nằm trên giường coi điện thoại. Mắt không rời khỏi cái phôn, ông hỏi: – Bà nói chuyện với nó xong rồi hả? – Ừa. Xong rồi. – Rồi nó có nói gì không? – Không. Nó kêu tui lo thu xếp rồi đi theo ông dìa. Tụi nhỏ vợ chồng nó lo được. – Đó, tui nói với bà có sai không. Nó đâu cần mình. Bà Tâm vừa xếp áo quần vừa nghĩ đến Tony. *** Ba mươi năm trước… Thằng Tôn của bà chỉ là cậu bé mười hai tuổi. Bà còn nhớ rõ, năm đó vào dịp hè, bà cho con ở lại nhà cô Lan để cậu bé vui chơi cùng thằng Hải, đứa em cô cậu, ở thành phố biển Nha Trang. Trong một chuyến vượt biển, cô Lan đã dắt theo thằng con trai của bà. Đùng một cái bà mất con cho đến hai mươi năm sau mẹ con mới được gặp lại mặt nhau. Lúc gặp nhau thằng Tôn của bà không còn là thằng bé thuở nào mà đã là một cậu thanh niên với cái tên rất Mỹ, Tony. Tony giờ đã học thành tài. Một dược sĩ với mức lương ngất ngưỡng và chuẩn bị lấy vợ. Thằng Tôn của bà nghe theo lời cô dượng nó, cũng là cha mẹ nuôi trên giấy tờ, nên đã làm giấy tờ bảo lãnh cả gia đình ông bà qua Mỹ trước rồi mới làm đám cưới sau. Trong ngày cưới của con trai có đầy đủ cả gia đình ông bà. Có cô Lan dượng Trung và còn có vợ chồng cô em gái của Tony. Lễ cưới của con trai mà bà cứ tưởng của người ngoài vì mọi chuyện đều do cô Lan lo hết. Ông bà có mặt cũng chỉ làm “hình nền” thêm cho đầy đủ màu sắc trong ngày trọng đại của con. Bà buồn lòng, nhưng không nói ra. Còn ông Toán thì lại trách cô em gái đã qua mặt qua quyền, nên từ đó đã giận luôn cô em. Ông không thèm qua lại với gia đình em gái. Thời gian trôi qua bà Tâm đã sống ở đất nước này hơn mười năm. Sống mười năm, vậy mà bà chưa từng đi làm ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc chăm lo cho chồng, cho con, cho cháu. Mỗi tháng, con trai, con gái cho bà vài trăm đô để dành dưỡng già. Mấy tháng trước khi dịch cúm vi khuẩn Corona bùng phát, chính phủ đã trợ giúp cho mỗi người một nghìn hai trăm đô la. Gia đình bà trừ con trai và con dâu (vì chúng làm vượt qua mức lương quy định để nhận được sự trợ giúp) thì ai cũng nhận được tiền. Bà thầm nghĩ, nước Mỹ này quá tử tế đối với một người như bà. Bà chẳng làm gì, nhưng vẫn được tiền trợ giúp. Số tiền đó, bà trích ra phần lớn gởi về cho thân nhân bên Việt Nam, phần còn lại bà cất dành. Bà Tâm nhớ lại trong những buổi tiệc, lễ lộc, chung vui của gia đình, nhất là ngày Thanksgiving, bà luôn nói với các con là gia đình bà rất biết ơn nước Mỹ đã cưu mang đùm bọc cả gia đình. Bà nói với các con hãy cố gắng hết sức mình để làm việc và đền ơn nước Mỹ, đất nước đã giúp đỡ mình. Chắc có lẽ vì vậy mà Tony nghe và nhớ những lời căn dặn của bà? Thành thử khi nghe em gái và cha bàn chuyện đi làm nhận tiền mặt để xin thêm tiền thất nghiệp, nên nó mới giận cha và em. Nghĩ tới đây bà chợt mỉm cười. Bà nghĩ thầm: “Thôi kệ, thằng Tôn mất gốc, nhưng nó vẫn còn nhớ tới những lời nói của mình. Và, hơn hết, tuy nó mất gốc, nhưng không mất nhân cách làm người. Còn cái gốc như cha con ông Toán cũng chỉ là đồ bỏ .” Y Thy Võ Phú Richmond, Virginia |



