


CHÀO THÁNG TƯ! Tháng tư buồn như một vuông lụa trắng Phủ mặt anh , vầng nguyệt tối ba mươi Tháng tư đầy , ôi một ly rượu đắng Rót tràn khơi , từ độ vắng môi cười Tháng tư thở, xung quanh mùi thuốc súng Xích chiến xa nghiền nát phận dân mình Tháng tư chín , cây sầu muôn trái rụng Thịt da vàng dường nợ lửa đao binh Tháng tư đỏ, đâu cần chùm phượng vỹ Màu cờ sao vấy huyết lệ đôi miền Tháng tư xám , oán hờn vươn bất trị Tháng tư đen, sầu hận nối vô biên Tháng tư khóc, lệ tràn xanh bốn biển Nắng xôn xao mù động đến vô cùng Tháng tư thắp trên môi lời quỷ biện Giải phóng ! hề… Nam Việt nấc lâm chung Tháng tư bước ly hương ngày chuyển dạ Đại dương sâu , mộ nước mẹ con vùi Tháng tư gọi tên nhau trời xứ lạ Chia tay rồi sao mặt cứ quay lui Tháng tư vẫy , tự dưng sao buồn thế Đáo hạn kỳ nhật nguyệt cứ luân phiên Tháng tư dựng vách sầu cao ngạo nghễ Cúi mặt nhìn vọng cố quốc lưu niên Tháng tư gửi anh em sầu xa xứ Tháng tư về trăm họ giỗ thanh minh Tháng tư ngước hỏi thầm chừng thiên sứ Đến bao giờ dân Việt hết điêu linh ? Houston ngày đầu tháng tư năm 2019 Đặng Toản/BTT |
Dụ ngôn tháng tư Tháng tư về rồi đó . Nhú hàm , chân răng khôn . Ngựa non rừng một xó . Lệ lăn thành dụ ngôn . Tháng tư ngày ly tan. AK và dép lốp . Dòng lệ buồn rơi khan . Cờ đỏ sao vàng ngộp . Hoa niên cánh rụng tàn . Cha thành tên tội phạm . Mẹ đêm nằm ho khan . Đếm ngày vơi cõi tạm Ta đốt buồn trên sân . Nhìn vầng trăng ảm đạm . Ôn cố rồi tri tân . Trong hoàng hôn lịm xám . Sáng ra vác cây cuốc . Vào rẫy chào cây rừng . Ngước đầu nhìn khói thuốc . Lệ cứ trào rưng rưng . Tháng tư lòng hoang phế . Tháng tư đời thiên tai . Xuân này bòn xuân kế . Đêm nay vùi đêm mai . Xuân rồi hoa chẳng nở . Dòng suối vắng chân quỳ . Cha cúi đầu trả nợ . Quê hương buồn như ri . Tháng tư buồn không nói . Tháng tư trầy đôi vai . Bóng nào bên truông mỏi . Vẫy tay chào giêng hai . Lệ rơi tràn luống chữ . Dụ ngôn thầm bên tai . Lệ lăn vào quá khứ . Dụ ngôn vờn tương lai . Tháng tư buồn xâm thực Tháng tư sầu kinh niên Đá gầm lăn xuống vực Lệ chảy vào vô biên Tháng tư tờ lịch bóc . Dòng lệ nhòa con ngươi Xin một lần được khóc Cho trọn ngày ba mươi ! Kinh tế mới Gia Lành , Di Linh 30/4/1984 Bài thơ cũ nhớ lại Đặng Toản |
Buồn chi lạ tháng tư! (*) Anh đang ước một ngày mưa tháng sáu Rửa tan trên phần mộ tháng tư gầy Chư thiên xuống trao đời cây viết báu Chép hịch truyền , an trăm họ đông tây Anh vốn biết quê hương mình nhược tiểu Chú vịt con trước một lão ngan cuồng Như gà trống núp dưới chân đà điểu Nên ngàn năm dân tộc ngậm hờn suông Thế kỷ trước vương xích xiềng viên mãn Dân Nam mình máu lệ buổi cơm chan Thời quá độ dài lê thê hung hãn Cú hồi thương tư bản độc vô vàn Anh chẳng thích nghe theo lời phủ dụ Rằng quê hương đang sắp sửa hóa rồng Trăng liềm đỏ nhìn sao vàng quá đủ Bày thêm chi vòng số tám mênh mông Anh không dám ngước nhìn quê trẩy hôi Lòng buồn như trẻ nít chịu tang cha Xin cúi xuống nhìn miền Nam hấp hối Tháng tư về , nỗi nhớ lại đi qua Anh sợ hãi một chiều thu lá nám Cố cung buồn , vương đế cũng lao lung Con mắt bão băng qua trời nắng xám Bao anh tài đất nước rụng như sung Anh đâu dám viết bài thơ chém gió Buổi dịch tràn nhân loại khổ đau chung Bước lầm lẫn đầu tiên hang khốn khó Để muôn đời huynh đệ chẳng tương dung Richmond 21/4/2020 Đặng Toản |
Tháng tư ngồi nhớ Sài Gòn Cha , anh làm… “ lính đánh thuê “ Tháng tư ngồi gục nhớ quê quá chừng Huyết áp tăng , mặt đỏ bừng Bậm môi nói lắp , ngập ngừng hiên sau Tháng tư Sài Gòn mưa mau Dây trầu chưa héo , mùa cau cũng tàn Nhớ quê ngồi nhớ quê khan Rót dăm ly rượu mà chan nỗi buồn Nỗi buồn đâu dễ rập khuôn Càng xa xứ tợn , càng luồn thấm sâu Tấc lòng không dễ vá khâu Cà phê , ghế xúp mài lâu túi quần Anh không thể vớt mùa xuân Đọng trên tuyết , dấu chân tuần lộc mon Cũng như không cách chi còn Rạng đông mọc giữa Sài Gòn tháng tư Tháng tư buồn cọng vui trừ Tháng tư máu lệ thiên thư chép giùm Tháng tư cỏ mộ xanh um Tháng tư oan khuất bao trùm nhân gian …tụng kinh Bát Nhã cầu an Sài Gòn ơi , nhớ ngập tràn tháng tư ! Houston 4/2021 Đặng Toản/BTT |
DỖ DÀNH THÁNG TƯ Dỗ mình trong suốt tháng tư Vòng lăn ký ức thặng dư mỏi mòn Tháng tư ngồi nhớ Sài Gòn Đại dương xanh, trái đất tròn vẫn quay Tháng tư ngồi nhớ loay hoay Nắng vừa bên tốn đã xoay sang đoài Tháng tư ngồi nhớ trong, ngoài Bao nhiêu số phận lạc loài cầm canh Miền Nam xuống dốc không phanh Áo tù cha bận, long lanh mắt gầy Tháng tư tủi hận tràn đầy Quê hương ngày ấy, máu lầy lội xuân Anh về qua nẻo gian truân Lề đường em bán bộ quân phục thừa Rẫy chiều ngồi nhớ chợ trưa Tháng tư xơ mướp, vỏ dừa quyên sinh Thuốc rê quấn giấy nhật trình Hút cho chữ thấm vô mình bớt ngu Tháng tư ngồi nhớ thu lu Cùng ta cả triệu sĩ phu trăm miền Tháng tư ngồi nhớ đảo điên Vỉa hè mẹ bám, lòng kiên-định ngồi Tháng tư vừa nhớ một hồi Bỗng dưng dòng lệ hoen bồi mắt khô A men rồi lại nam mô Hồn oan tử sĩ đội mồ xung phong Gõ hồng chung một tiếng bong Dường như nhịp mõ phải lòng câu kinh Tháng tư thập tử, nhất sinh Sài Gòn hấp hối, Ba Đình hội vui Nhạc vàng qua phải hát chui Guitar ngạch cửa, bùi ngùi bậu canh Tháng tư đỏ lấn vàng, xanh Cúi đầu mặc niệm, dỗ dành tháng tư Houston cuối tháng 3/ 2022 Đặng Toản |
Lính Đánh thuê 1- Bên thắng cuộc của anh các vị tướng lãnh Kể cả những vị cao cấp nhất , đa phần đều Học quân sự tại trường sĩ quan cao cấp Hoàng Phố ăn lương khô Trung Quốc Đi xe đạp Phượng Hoàng Vượt Trường Sơn bằng Gin ba cầu và Molotova Chở theo chiến xa T54 Từ núi xuống đồng bằng Tràn vào thành phố Các anh bắn chúng tôi bằng AK-47 B-40 , B-41 pháo 122 ly và 130ly Cha anh tôi cầm Carbin M2 và M-16 , AR – 15 , M-72 Chống cự lại để sống còn Lớp lớp người đã gục ngã vô danh Các anh thắng , trương cờ búa liềm Treo hình Lê Nin – Các Mác Nêu cao chủ nghĩa Cộng Sản Trong khi miền Nam chẳng thấy treo hình một vị tổng thống Mỹ nào trong phòng họp Vậy mà các anh … Nỡ… Nói cha anh tôi là… Lính đánh thuê ! 2- Hai mươi năm sau Đế Quốc Mỹ từng là tên sen đầm quốc tế làm hòa nối lại bang giao Với Cộng Hòa Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam Cha anh tôi và rất nhiều người bạn tù ra ngoài công viên ngồi khóc Đến bây giờ các vị ấy tuổi đã hơn 70 đến 90 Chưa một lần lợi dụng đồng đô la’ Về thăm quê Mạo danh trong cái lốt Việt kiều yêu nước Để thăm họ hàng và…tiện thể Lén lút vào khách sạn với mấy cô bồ nhí Vậy mà bây giờ Hàng ngàn đảng viên cao cấp Đưa con qua du học Mỹ Mua cả ngàn căn nhà ở California Những người lính Việt Nam Cọng Hòa xưa kia Đến bây giờ họ chưa bao giờ làm hòa với các anh Rất nhiều người trong số họ chưa từng về lại VN Dù chỉ một lần Vậy mà ông chủ Mỹ của họ đã Ít nhất ba đời tổng thống đã qua thăm chính thức Việt Nam Vậy là sao? Các anh nghĩ kỹ lại đi Lẽ nào lính đánh thuê Chủ bảo không nghe ? 3- Hôm qua tôi nói điều này Trong bữa cơm họp mặt cuối tuần đại gia đình Cha tôi bảo Mình thua rồi con Họ thắng , muốn nói gì thì nói Bởi vậy nên bây giờ , họ bị ông anh lớn là Trung Cộng ăn hiếp Cũng phải cúi đầu chịu nhục Chẳng dám nói gì Mạnh được yếu thua là lẽ thường của quả địa cầu này Con lên rừng mà xem , con cọp nó ăn con nai con thỏ Con xuống biển mà xem Con cá to nuốt trộng con cá nhỏ Khi chúng ta sống với một điều gì gần với nhân văn Là phải hiểu ta đem điều ấy Từ hành tinh khác xuống Nghĩ cho cùng VNCH đã chết Nhưng cái chết này giúp chặn đứng Sự lan tràn mạnh mẽ của khối CS sang hết vùng Đông Nam Á Mà Thái Lan là nước may mắn nhất Nếu VNCH thua sớm vài năm Không phải Thái Lan mà Miến Điện Và Ấn Độ đều lâm nguy Giá trị của nút chặn VNCH là ở chỗ này VNCH tan xác nhưng không uổng phí Người Cộng sản dựa vào sức mạnh Đánh chiếm miền Nam , giết hại anh em Chỉ vì người anh em đó không tôn thờ Lê Nin – Các Mác – Mao Trạch Đông Bây giờ họ mới bắt đầu thấm đòn Nhân quả Chỉ tội nghiệp vô cùng những người dân lương thiện Của quê hương VN mình 4- 2023 Đặng Toản/BTT |

Thơ Tháng Tư Về Nắng tháng tư xuyên qua từng kẽ lá Mong manh chiều ký ức vẫn chưa quên Em thẫn thờ ướt thêm viền mắt đỏ Lạc mất nhau lòng buồn mãi trong đêm. Tường hoa giấy đỏ pha thêm sắc tím Hoa loa kèn sắc trắng nở ngôi sao Cho nỗi nhớ phiêu du cùng ngọn gió Tiếng chiều rơi xen kẽ tiếng lao xao. Một nỗi buồn vừa chui qua cửa sổ Tháng tư về nhắc nhở chuyện năm xưa Tái tim bé nhỏ chứa đầy nỗi nhớ Hồn quê hương nức nở khóc như mưa. Tế Luân Tháng tư lại về Buồn Tháng Tư Tháng tư buồn muốn khóc Góp mảnh vụn thời gian Thái bình dương mây trắng Hồn quê buồn thênh thang. Buồn nào của tháng tư? Sài Gòn em đi qua Chén ly bôi uống cạn Lời chia ly xót xa. Đêm trong đêm mộng mị Tìm hương cũ xiêm y Cuốn hồn về cố xứ Tháng tư buồn chia ly. Nghìn trùng nơi đất lạ Hồn quê cũ u hoài Thương em tình ngây dại Bước phiêu du lạc loài. Nén nhang màu hương khói Khăn tang trắng tháng tư Xa xưa tràn nỗi nhớ Sái Gòn khóc trong mưa. Tế Luân Tháng tư buồn Xin mời nghe hai ca khúc thật buồn cho tháng tư. Giọt Lê Khóc Cho Quê hương https://www.youtube.com/watch?v=0WNULq8-d-M Vết Loang Đoạ Đầy https://www.youtube.com/watch?v=xT-Ybje2U3s |
NHỚ SÀI-GÒN Đình Duy Phương Tiếng ai than thở nhớ Sài-Gòn Thổn thức lòng tôi, ôi héo hon Phố cũ người xưa dường đã mất Sài-Gòn ẩn hiện bóng vàng son. Saigon tôi, dáng hình mơ mộng Đẹp não nùng, hòn ngọc Viễn-Đông Bão táp phong ba bao thế hệ Qua lần mài dũa ngọc càng trong . Tôi vẫn nhớ sân rường phượng vĩ Hè về hoa phượng đỏ đường đi. Ngôi nhà Thờ kiến trúc uy nghi Chùa lợp mái cong cong tuyệt mỹ. Catinat, đường Tự Do phơi phới Khách nước ngoài thăm viếng tới lui Khu Chợ Bến Thành bốn cửa lớn Đông Tây Nam Bắc gặp nhau cười . Đường Nguyễn Huệ hoa xuân rực rỡ Mai vàng Thủ Đức rợp trời thơ Trái cây dưới tỉnh về nườm nượp Nhớ lại ngày Xuân, tưởng giấc mơ . Người tượng đá rơi dòng lệ nóng ! Nhớ Sài-Gòn nhớ cả non sông Sóng trùng duơng nổi dậy trong lòng Sài-Gòn hỡi Em còn đó không ? Đình Duy Phương California 2004 |
BẦU TRỜI THÁNG TƯ Tôi đã thấy một khung trời ảm đạm Xám xịt, tối tâm Thời gian ngưng đọng và tương lai đứng yên Lời cầu nguyện tắt lịm , vô vọng Những chiến hữu tử thủ đã nằm xuống Tiếng súng đã im hơi, uất nghẹn Nước mắt tôi cũng đọng lại không còn chảy xuống Ôi dân tôi,đồng bào tôi đi vào khổ nạn Những kẻ xâm lăng đã thắng Nhờ cỏng rắn cắn gà nhà Nồi da xáo thịt Cơ hội đánh giặc mướn Khí giới nợ vay mượn Nga Tàu chồng chất Chỉ cố giết nhau để giành thêm đất, mà dâng cho giặc Họ đánh giặc mướn, mà nói là để thống nhứt Tròng cổ dân trong mọi lệ thuộc Đâu chỉ họ cố làm nô lệ, tự mình trói buộc Người dân Nam bị giải phóng có vui mừng đâu Được thống nhứt họ đều hiểu bị tròng cổ ách Nga Tàu Chỉ những kẻ cuồng tín khát máu đồng bào Không thể hiểu Kìa họ trơ tráo giành giựt cướp chiến lợi phẩm Đồng hồ ,tv, máy giặt, tủ lạnh… Vội vơ vét cho nhanh chở về miền bắc Đảng giữ hết dùm cho dân Nam an lòng Sẫn sàng làm kẻ chiến bại Đi vùng kinh tế mới Khi lính ngụy sẽ vô tù cải tạo chết dần, mòn mõi Chương Hà |
TRÁI TIM VIỆT NAM Đồng bào ơi Khi nói tiếng dân tôi Câu đồng dao, giọng hò miệt ruộng Bài ví dậm, vọng cổ cải lương Ăn cơm gạo tẻ, xôi phồng Mắm đồng, thịt đông Chia sẻ nhau đời sống Đầy phong cách truyền thống Thì mình cùng là người Việt Nam Giòng giống rồng tiên Hơn bốn ngàn năm văn hiến Cùng bảo tồn gìn giữ quê hương từng tấc đất thân yêu, quý mến Đấu tranh để sinh tồn Quật khởi khi tà quyền hiếp đáp Đoàn kết, quyết vì tự do độc lập Hy sinh xương máu cho quê hương gấm vóc Trái tim ta chứa chung dòng máu Việt Lan tỏa khắp địa cầu Anh hùng hào kiệt, cang cường, oanh liệt Mấy ngàn năm soi sáng lịch sử Việt Nam Dễ gì bị đồng hóa, dễ gì bị tiêu diệt Là trái tim Việt Nam bất di bất diệt Chương Hà |
![]() Black April Tôi viết bài thơ…đen Tháng Tư Đau thương, uất nghẹn…hậnTháng Tư Phận người trôi nổi vô bờ bến Phận số em tôi cũng giã từ… Mơ thấy em về nét trẻ con Gọi tên…em nở nụ cười son Đi đâu em hỡi về nhà nhé! Tôi gọi…mà sao nước mắt tròn Đôi mắt em nhìn vẫn xanh trong Bỗng đâu…mắt lộ máu tia hồng Em đứng nhìn tôi dường muốn nói Em đã chết rồi…chị biết không! Nước mắt đầm đìa ướt gối bông Em đi thay chị…xót xa lòng Cậu đem theo Mợ bầu ba tháng Biển dữ điên cuồng hét bão giông… Hãy trả em về…trước Tháng Tư Đau thương,mất mát…buồn Tháng Tư Oán loài quỹ dữ không tim óc Hận lũ yêu ma não nát nhừ Tôi chẳng bao giờ…quên Tháng Tư Miền Nam Nước Việt phủ mây mờ Triệu dân Nước Việt rời bỏ xứ Biển cả làm mồi lũ hải ngư Thế hệ sau này có biết đâu Mẹ cha khóc hận… hỏi sao sầu? Vui ca nhảy múa mừng lễ lớn Không biết vì sao “Black April” Không có mùa Xuân…ở ThángTư Màu đen bao phủ tận bây chừ Miền Nam thương nhớ màu Cờ sáng Thắp nén hương lòng…khóc Tháng Tư… Erlinda Thuỳ Linh 04/01/2023 3:14PM |
Chủ Nghĩa Vong Thân Người nâng ly uống cạn nguồn vô cảm Đắng trong cuống họng đắng cả trái tim Lý tưởng bồng bềnh theo chiều gió cuốn Trên thiên đường mù chủ thuyết đang chìm. Mảnh đất quê hương tranh nhau xâu xé Cờ đỏ búa liềm cấu kết chia phe Chủ thuyết đàn hồi manh nha bán nước Vờ vĩnh đốt lò thả khói u mê. Cộng sản vô ơn tâm hồn mù quáng Trí óc bào mòn tư tưởng giam tù Danh vọng tiền tài con đường nô lệ Vỗ ngực ta đây cặp mắt đui mù. Lắm kẻ còn ham xum xuê bợ đỡ Bán rẻ lương tâm vồ vập tôn thờ Cay đắng trái tim máu đào nhỏ lệ Quên mất cội nguồn mê muội dại khờ. Tế Luân Người Lính Nơi Chiến Trường Một mai gục ngã chiến trường Xác thân bọc lại, vô thường chia xa Tấm huy chương, ngực áo hoa Mẹ ơi! Con đã nợ nhà trả xong. Đừng cúi đầu, hãy cứng lòng Từ nay Cha đã thong dong phận người Em trai xin hãy nhớ lời Học hành chăm chỉ cho đời vươn lên. Chiếc xe quà tặng mang tên Tình thương anh gửi riêng em chủ quyền Chị ơi! Đừng quá ưu phiên Em không về được, ngoài hiên bóng chiều. Xin nói với người tôi yêu Đừng than, đừng khóc, nhớ nhiều lòng đau Người lính chiến nơi tuyến đầu Anh Hùng Vị Quốc. Nguyện cầu quê hương. Lê Tuấn Phóng tác theo ý th Trái tim người lính Ukraine Ngày Cựu Chiến Binh Nhớ hay quên đừng lạnh lùng quay gót Chiến tranh đã qua người lính còn đây Tóc đã bạc, nỗi đau hờn vong quốc Rượu ân tình, xin hẹn buổi sum vầy. Một chút tự hào, lòng thêm đau nhói Đêm còn mơ, bừng tỉnh cõi hư không Vết thương xưa hằn sâu trên da thịt Nhận nỗi buồn mà thẹn với núi sông. Lê Tuấn Người lính già chưa giải ngũ. |
![]() Tháng Tư Mất Quê Hương Lâu lắm rồi tháng tư buồn ngày ấy Không hiểu sao tôi vẫn nhớ vẫn thương Cuối tháng Tư tôi đã mất quê hương Rồi xa mãi trong nỗi buồn biệt xứ. Miền Nam Tự Do trong cơn đột tử Triệu nén nhang buồn lịch sử sang trang Ngày Quốc Hận, cõi hồn đau vô tận Đất Mẹ buồn, phủ trắng một màu tang. Miền Nam biến thành nhà tù cộng sản Giam giữ trái tim, yêu chuộng hoà bình Bắt người yêu nước giam vào ngục tối Để văn thơ phá vỡ những nhục hình. Tù cải tạo giam toàn những nhà thơ Là đêm tối ánh sao trời rực rỡ Bài thơ thức tỉnh thế giới loài người Thoát khỏi u mê, phá vỡ đôi bờ. Bắt hết tự do giam vào ngục tối Tù nhân lương tâm, xứng đáng con người Là tình yêu biết hy sinh cống hiến Cho quê hương, lịch sử sáng ngời. AET Lê Tuấn Người lính già chưa giải ngũ Tưởng nhớ ngày 30 tháng 4, 1975 ![]() Tháng Tư Chia tay Tháng Tư về nắng hạ còn lưa thưa Khói bụi hồng cơn mưa chiều rất lạ Bóng chim hốt hoảng xa bay cuối phố Gọi nhau về theo lối cũ em qua. Tháng Tư nở muộn loài hoa tím dại Chiến tranh về để lại những thương đau Những mặt người lấp ló nơi đầu ngõ Lo sợ điều gì? Muôn vạn nỗi sầu. Lời nghẹn ngào bao điều chưa muốn nói Chia cắt từ đây, nơi đất mẹ xa vời Cho thương khóc một người đi biền biệt Gói trọn trong tim ký ức bồi hồi. Tháng Tư lại về gợi nhớ thêm buồn tủi Biển chia xa đẩy lùi bóng chim bay Ngày vĩnh biệt xa nhau là xa mãi Sài Gòn buồn tháng Tư, ngày chia tay. AET Lê Tuấn ![]() Tháng Tư Đạn Lạc Tháng Tư đạn lạc cánh chim bay Thê thảm ngày buồn chuyện đổi thay Phố xá tình xuân đành đứt đoạn Ngày dài tháng muộn mấy ai hay. Thương đau ngày cuối tháng tư về Chia mối tình riêng đã hẹn thề Đêm cúi mặt tuôn rơi lệ khóc Nỗi buồn thổn thức dài lê thê. Bóng chinh nhân huyền ảo trong mơ Chiến sĩ hành quân giữ cõi bờ Chinh chiến mịt mù bom lửa đạn Lời thề xưa vẫn đợi mong chờ. Tháng Tư vận nước đeo tang trắng Đau nhói hồn ta vạn nỗi sầu Chia cắt đời nhau trong góc khuất Đôi bờ đôi hướng chạy về đâu. Bờ yêu biển nhớ sóng vun đầy Thấm nỗi lưu vong rượu uống say Đã qúa xa rồi ngày tháng cũ Bây giờ nhớ lại buổi chia tay Nước non ngàn dặm vẫn chờ nhau Số phận chia hai nối nhịp cầu Vận nước bao giờ thay đổi mới Ta về xây lại buổi ban đầu. Lê Tuấn Nỗi buồn tháng Tư Xa Nhau Tháng Tư Xa nhau ngày đó tháng tư về Lạc mất tình xuân lỗi hẹn thề Chia cắt đôi bờ xa khuất bóng Cõi hồn thương nhớ buồn lê thê. Dấu đi góc khuất một hồn thơ Tiếng nấc chưa ngưng vẫn đợi chờ Ngôn ngữ còn tuôn đầy nỗi nhớ Lòng như chất chứa đầy trong mơ. Người yêu biển nhớ mối tình đầy Biền biệt tha phương giữa chốn này Mỏi cánh chim bay trời gió lạnh Buồn nào day dứt ngày chia tay. Cơn đau thân phận cũng qua mau Số phận chia đôi cả nỗi sầu Năm tháng vấn vương ngày ly biệt Tháng Tư, vận nước đã thay màu. Lê Tuấn Tháng Tư Lại Về Tháng Tư buồn lặng lẽ Nắng hạ còn đơn côi Sương mù giăng khắp lối Lòng xao xuyến bồi hồi Em! Một thời để nhớ Anh! Chinh chiến tơi bời Sài Gòn thời hoa mộng Lưu luyến một phương trời. Con đường lá me bay Đợi nhau mối tình đầy Sông Sài Gòn dòng chảy Cánh chim mờ chân mây. Tháng Tư về hoang mang Chiến tranh thật kinh hoàng Đoàn người đi vội vã Chia ly trong ngỡ ngàng. Tháng Tư ta mất nhau Hồn đau thấm nỗi sầu Từ nay “Tự Do” mất Chia đôi hai nhịp cầu. Thái Bình Dương xa cách Hai bên sóng vỗ bờ Sóng thay màu tang trắng Quê hương vẫn đợi chờ. Em bây giờ mong đợi Những yêu thương một thời Sài Gòn ngày xưa ấy Ta lạc nhau mất rồi. Lê Tuấn |
NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐẦU HÀNG Cuối cùng cũng có được những người lính Nga trẻ mới bị bắt làm lính Không khù khờ biết mình bị gạt gẫm Đem thân hy sinh cho kẻ độc tài khát máu Xâm lăng xứ người vô nhân nghĩa, vô đạo Dù bỏ vũ khí hàng địch cũng không hèn Biết phải trái, biết suy nghĩ Phân biệt con người với ác quỷ Vẫn còn những người có lương tri Nhứt định không làm chuyện trái với lương tâm, mất lý trí Đánh chiếm xứ người, giết người vô tội Tội ác thiên cổ, suốt đời bị phỉ nhổ Lảnh đạo ác nhân, đầy tham vọng Chiếm chút đất của người ta mà tàn hại cả dân mình Những người mới lớn lên buộc phải hy sinh Chết mà tủi nhục Lòng người Ukraine không hề khuất phục Họ sẽ chống lại suốt đời mãn kiếp Dù Nga có cai trị được trên hoang tàn đổ nát Họ cũng vẫn quật khởi từng hồi, giết từng người xâm lược Dù chỉ một bước trên quê hương họ cho được Chương Hà |
TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM . Có ai hỏi anh là ai? Tôi hãnh diện tôi là người Việt. Chẳng cần phải vùng nào, miền nào hết Nên bao giờ ai phân biệt bắc trung nam. Cả nước tôi dân đều là người Việt. Ai cắc cớ hỏi dân miền thắng hay miền thua thiệt Rất xấu hổ cho họ, cho tôi, khi họ phân vân Chủ nghĩa nào có được lòng dân Dân tự do bầu, tự do bày tỏ không bị ai quản lý, gò bó, đàn áp khủng bố mới là bên thắng cuộc Được bảo vệ no cơm, ấm áo, trong quyền làm người sau trước Lòng dân là sức mạnh dựng nên cơ đồ tổ quốc Là chính nghĩa quê hương dân tộc Là tâm huyết bảo vệ từng tấc đất của non sông Giữ gìn biên cương, chống kẻ ngoại xâm Nuôi văn hóa, tập quán và phong tục. Nước tôi hơn bốn ngàn năm hiển hiện Từng bao lần bị ngoại bang lấn áp triền miên Vẫn cang cường quật khởi với bao anh hùng hào kiệt hiên ngang Đã đoàn kết đồng tâm vững chãi lòng yêu nước Dầu phải hy sinh giọt máu cuối cùng mới được. Ai ngược lòng dân, hung tàn , bạo ngược, nối giáo hàng giặc Sẽ bị hủy diệt, tự diệt Ai sẻ chia, đùm bọc nuôi nhau bằng tình dân tộc Đối xử bằng nhân nghĩa, đạo đức Thì xứng danh, đích thực là người Việt Nam Chương Hà |
VINH DANH Làm sao vinh danh những chiến binh Cộng Bắc Chết dẫy đầy trên chiến trận miền nam Dưới làn bom rừng núi Trường Sơn Trong địa đạo, hố hầm du kích giặc Hy sinh vì những hô hào bịa đặt Quyết lòng muối mặt, chịu nô lệ Nga Tàu Nhắm mắt, nhẫn tâm giết hại đồng bào Huỷ đời sống dân mình đang bình yên, tự do, no ấm Chối lương tâm các anh đành đánh giặc mướn Giải phóng gì, dân nào muốn anh đâu Các anh điên cuồng cưỡng chiếm miền nam bằng bạo lực, binh đao Mà vênh vang tự đắc rổng “ Ta chiến đấu đây là cho Nga, cho Tàu Cộng Cho chủ trương, thế giới đại đồng” Đại đồng các anh, là nô lệ, gông cùm Ngàn năm đô hộ vẫn còn ngu muội Các anh sống chết chỉ hổ danh, chỉ nhục, chỉ tủi Chúng tôi vinh danh đây, những anh hùng muôn thuở Dũng khí , hùng tâm, chói chang chính nghĩa Vì dân lành, quyết giữ vững giang sơn, bờ cõi Quá nhiều anh hùng, mà cả thế giới, không nước nào có nổi Họ sống mãi với núi sông, tổ quốc không nguôi Anh hùng chúng tôi toàn dân Việt yêu thương, tôn kính đời đời Cả thế giới luôn cúi đầu bái phục Bao vì tướng lảnh và bao chiến sĩ hy sinh bất khuất Họ hào hùng sống chết với quê hương Danh thơm muôn thuở, tổ quốc mang ơn. Chương Hà |
Tháng tư,mỗi ngày một bài thơ xót xa CỨ MỖI THÁNG TƯ Những cơn sóng nhấp nhô,vồn vập, nổi trôi tràn dĩ vãng Biển cả mênh mông, kinh hoàng và hãi hùng. Cướp biển, đói khát, vật vã, xác vùi sâu biển khơi Những vất vưởng, níu với, vượt rừng vượt bụi Trốn chui, trốn nhủi, tránh loài quỷ dữ. thí mạng qua biên giới. Tháng tư rã ngũ, tàn hơi vì lũ ngụy cố dồn áp lực. Dẫu thí quân, lính già, lính trẻ gần hết. Ta thì cạn khí giới, đạn dược, Đồng minh bỏ rơi, không tiếp sức. Trái lựu đạn chết chùm. Đường rút lui tuyệt vọng. Phát súng nghiệt ngã, vinh dự cuối cùng ghê tởm đón kẻ xâm lược. Họ giải phóng một chánh nghĩa, để sát nhập một đảng cướp bất nghĩa, vô lương. Bao ngậm ngùi, hờn tủi, dọn mình vào trại tập trung Nhốt tù cải biến tư tưởng , hay đi đày vùng kinh tế mới. Tháng tư hấp hối Chịu đựng để hận thù được gộp rửa từ kẻ thắng cuộc cố tình chụp mũ buộc tội. Mệnh nước buông xuôi, dân tộc lênh đênh. Tháng tư ãm đạm, buồn tênh Trời sầu đất thảm, quê hương tang tóc, hoang tàn Tất cả phải sụp lùi, xác xơ, trơ trọi. Những tiếng nấc trào trở vào tim phổi, tê dại, nhức nhối. Tháng tư, một lịch sử cố sang trang mà để hàng mấy chục năm sau càng thêm tăm tối Chương Hà 2020 |
Mỗi ngày tháng tư đen,từng bài thơ xót xa LÀM NGƯỜI VIỆT NAM RẤT BUỒN Khi ba tuổi tôi đã biết bò trốn dưới sàn ván khi nghe còi hụ máy bay Nhựt oanh tạc Chín tuổi sụt sôi lòng đau dân tộc khi nghe trò Ơn trèo rào thành Oma chống Tây bị bắn chết Học lịch sử, tôi biết nước tôi vẫn còn là thuộc địa Dù chính nghĩa độc lập, tự do mơ hồ ý nghĩa mỗi khi đoàn học sinh chúng tôi hô hào “Đức Quốc Trưởng vạn tuế, ngài Thủ Tướng muôn năm” Tôi biết người lao công hàng ngày vẫn lui cui cạo mủ cao su ở những đồn điền thực dân Những người yêu nước còn đang còng lưng đập đá nơi Côn Đảo Tuổi thanh niên của tôi chỉ vài năm nhận thức Nửa nước mình thực sự thanh bình ,không nghe tiếng bom, tiếng pháo Người dân sung sướng no cơm, ấm áo Dù lắm ngậm ngùi đất nước bị phân đôi Dù xót dạ cho phần người thêm bị đọa đày trong xích cùm nô lệ mới Hai mươi năm từng thế hệ chúng tôi phải gây hận thù bắn giết nhau Làm vật hy sinh vô lối Người dân tôi hiền hòa, hơn mấy ngàn năm phải luôn tự vệ để sống Ghê tởm chết chóc mà vẫn giặc ngoài giặc trong Làm người Việt Nam rất buồn Khi thống nhứt phải trả nợ chiến tranh , phải đền ơn hổ trợ ngoại bang Phải triều cống Đất nước vẫn bị bức biếp, chia cắt, mất mát, tương tàn Chủ nghĩa thực dân, rồi chế độ cộng sản, người dân càng thống khổ muôn vàn Càng đau lòng hơn vì là người mình đàn áp, khủng bố, tàn sát dân mình Ngụp lặn, suy sụp, nô lệ hơn trong ão tưởng đại đồng Nước tôi tới bao giờ mới thật sự độc lập, thanh bình Tự do, dân chủ bền vững? Làm người dân Việt thật buồn thảm Chương Hà |
Tháng tư đen, mỗi ngày một bài thơ xót xa NGÀY QUỐC HẬN Khi Cộng Sản mừng ngày chiến thắng Hoàn thành dã tâm Mặt trận xâm lăng miền nam để ngơ ngáo, váo vênh, tự đắc Nhờ ơn Nga Tàu đốc xúi, ép buộc Người dân tôi thảng thốt khóc tháng tư đen, ngày quốc hận Khổ đau chồng chất miền nam cùng miền bắc Xót xa, điêu tàn, mất mát Là ai hy sinh, chiến đấu cho ngoại bang Ai đem nồi da xáo thịt đồng bào Hảnh diện làm nô lệ, chư hầu Miền nam có bị đô hộ đâu mà diệt Ngụy cứu nước Người miền nam sống độc lập, tự do, no cơm, ấm áo Không gì quý hơn độc lập, tự do Thật Sự Là độc lập không chư hầu , lệ thuộc Cỏng rắn cắn gà nhà mà cho mà cho mình là chính trực Miền nam người Việt yêu quê hương, tổ quốc Theo gương tiền nhân quyết chống trả kẻ thù truyền kiếp Phải tự vệ quyết bảo bọc dân lành vì chánh đạo Tuyệt đối không cắt đất, dâng đảo Lạy lục, van xin kẻ thù kề cận luôn hiếp đáp Giết dân cả hai miền vì chút quyền thái thú đọc đảng cai trị, áp bức Hãy nhìn bảy mươi năm qua dân được giải phóng mà càng bị bắt bớ , tù ngục Thống nhất để càng khốn khó Trai lao động khắp xứ người Gái xả thân mọi nơi nước lạ Đất nước lần hồi bị người ta làm chủ cả Dân đói rách phải làm thuê, làm mướn cho mọi chủ nhân trên cả quê hương mình Đảng Nô Cộng trơ tráo mỵ dân Dân làm chủ mà đảng quản lý chủ. Xích xiềng, áp bức, xiết cổ, bóp họng Giết chẵng nương tay đồng bào ruột thịt ao không biết gục đầu xấu hổ Thẹn với quê hương, nhục vong linh tiên tổ Cuối tháng tư đen phủ phục Sám hối ngày đại tang quốc nhục Chương Hà tháng 4- 2019 |
Thuở đó, tôi đã biết yêu thương tổ quốc Đợi hàng tuần hăng hái cúi đầu trước lá quốc kỳ. Thấm đậm lời công dân thầy tôi dạy kỹ. Bài hát quốc ca hùng hồn vang lừng một cõi: “Nầy công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi”… Thuộc địa dư, tôi vẽ đất nước Việt tôi, Hãnh diện hơn bốn ngàn năm tuổi. Từ ải Nam Quan, đến mũi Cà Mau, Hoàng,Trường Sa, Côn Sơn, Phú Quốc. Đất nước ốm yếu, sinh tồn trải dài hình chữ S. Bao lần lệ thuộc làm tôi khóc Đau đớn, xa xót cho số phận dân tôi… Tôi nhớ đời, lần cả lớp để tang Trò Ơn biểu tình, bị giặc Pháp giết. Tối nào cũng lặng im, cơm chan hòa tiếng nấc… Tôi lớn lên, vừa biết thế nào là tự do, độc lập Vẫn mơ hồ khi hai miền nam bắc Che tủi nhục, bôi mặt bắn giết nhau thỏa sức. Vì người lại làm tội đồ dân tộc, Cõng rắn cắn gà nhà. Đồng bào lầm than, giờ càng tang tóc… Tôi khóc thương bao lần, những anh hùng dân tộc Xả thân bảo vệ quê hương, dâng cả cuộc đời. Sống vi tướng, chết vi thần Gương thế gian sùng bái, ngưỡng mộ… Rồi bao chúng tôi phải bơ vơ, khổ nạn xứ người Mà hồn quê đành nấu nung hướng về đất tổ. Bao lần tôi vạch dao khắc thơ trên đá, Thấm máu đào người vượt biển, ghi dấu những nấm mộ hoang Gom xương tàn những người lính trận ức oan Thắp nén hương cho họ thơm hồn nước linh thiêng… Mấy mươi năm xác thân cạn kiệt dần, Không thế̉ “hy sinh tiếc gì thân sống” mà chỉ còn dưỡng nuôi hy vọng Rồi dân tôi sẽ quật khởi, không hề khuất phục Lại dập dồn tiếng trống Hà Hồi, bập bùng đuốc linh Diên Hồng mở hội… Tai tôi nghễnh ngãng dần, vẫn âm vọng hoài “Nầy công dân ơi” Mà máu tôi cứ sục sôi, khi nhìn lá cờ vàng bay phất phới T ôi sẽ níu vói đứa cháu nhỏ,dìu đứng lên khắp khởi S ung sướng, say sưa, sát cánh đồng bào quanh tôi Nao nao cùng hát vang câu “Đáp lời sông núi” CHƯƠNG HÀ |
Tháng Tư Chiến Sĩ Về Đâu Mưa Tháng Tư lính buồn thầm nghĩ Mất quê hương tráng sĩ về đâu Sóng đời gây cảnh bể dâu Anh hùng lỡ vận nuốt đau vào lòng Nhớ chinh chiến ngược dòng gió bụi Tháng năm dài rong ruổi đao binh Tung hoành khí phách trung trinh Xông pha trận mạc quên mình hiểm nguy Từng tất đất biên thùy trấn giữ Đất Rồng Tiên lịch sử khắc ghi Mưa cuồng nắng cháy sá chi Tinh thần trách nhiệm không gì cản ngăn Quân nhân cũng ngắm trăng lãng mạn Mời Hằng Nga uống cạn rượu tình Nhờ mây với gió đi tìm Giấc mơ tao ngộ giữa nghìn vì sao Lính còn thích hoa đào mai nở Nắng chan hòa rực rỡ mùa xuân Sương chiều nghe dạ bâng khuâng Kéo dài hơi thuốc nhìn vầng khói lan Tàn cuộc chiến nhà tan nước mất Tha hương, tù, ức uất quyên sinh Trôi theo con sóng vô hình Mồ hoang cỏ phủ anh linh nghẹn ngào Mưa Tháng Tư thấm trào nước mắt Người lính già se thắt nhớ thương Mong ngày trở lại cố hương Thăm sông núi biển con đường cái quan Nỗi Lòng Chinh Nhân Đồn xa biên giới những đêm trường Nhớ mấy cho vừa chốn hậu phương Bút rót miên man từng nét chữ Thư tràn dào dạt lắm niềm thương Chinh nhân mang cả trời tâm sự Chiến sĩ ôm đầy nỗi vấn vương Gánh trọn hai vai tình đất nước Đâu ngờ dang dở khóc quê hương Dương Việt-Chỉnh |
THÁNG TƯ VÀ NƯỚC MẮT Tháng tư những giọt lệ buồn Khóc cho đất nước, khóc thương quê nhà Khóc cho mẹ, khóc cho cha Khóc cho bụng đói xót xa tháng ngày Khóc không hộ khẩu không nhà Khóc đời vất vả bôn ba chợ trời Khóc con vượt biên chết rồi Khóc chồng cải tạo thây phơi rừng già Khóc mờ đôi mắt xót xa Khóc thành sông suối, lệ hòa máu tươi. Khóc thương một kiếp con người Khóc buồn thân phận đổi đời nghiệt oan Khóc cho số kiếp lầm than Trăng treo đỉnh núi thiên đàng bỏ không. Nguyễn thị Thêm 28/4/2023 THÁNG TƯ Ta nhớ tháng tư Buồn rơi nước mắt Ta chạm tháng tư Bao điều mất mát Ta ôm tháng tư Vòng tay thất thoát Ta khóc tháng tư Tuổi đời già chát Ta giữ trong ta Trái tim rách nát Để nhớ để thương Tháng tư ngày nào… Buổi chiều Cali Mây buồn gợi nhớ Ta ngồi ta thương Người lính ngày xưa. Nguyễn thị Thêm 28/4/2023 |
![]() ![]() Hôm nay, 48 năm tưởng niệm ngày Quốc nạn, Quốc hận, Quốc tang 30.4.1975. Tôi thức dậy sớm, xem thời tiết, sẽ mưa suốt ngày. Gọi một người bạn. Có đi chào cờ không? Trả lời: Nếu mưa tạnh. Nghe đây ông bạn già: Bão cũng phải đi, tôi có giác quan … thứ bảy. 11 giờ, trời vẫn mưa lớn, như thách thức Ban Tổ Chức. 12 giờ khai mạc, mưa bỗng giảm lại, sau đó là lắc rắc. Tôi quên mất những người trên khán đài, đang đứng chung quanh Eden Center, nhìn lên bàn thờ dưới cơn mưa. Bốn lá cờ khóc sướt mướt. Trên cột cờ, lá cờ rũ buồn bã số phận lưu vong. Dưới cơn mưa, những khung hình 8 vị tướng tuẫn tiết trên bàn thờ vẫn sống động, đang chăm chú nhìn mọi người. Bao nhiêu năm chiến tranh, chỉ có một ngày đáng nhớ, nhưng không thể viết hết thành lời, bởi thảm kịch đất nước đã vượt khỏi biển khơi. 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hoà đã đóng lại số phận của hai mươi năm chiến đấu và xây dựng. Nhưng những di sản lớn lao của Việt Nam Cộng Hòa đang lộ rõ khắp miền Nam, tiềm tàng nơi miền Bắc, sống động nơi những vùng đất người Việt chọn làm gia nghiệp với những sinh hoạt bảo tồn văn hoá. Di sản Việt Nam Cộng Hòa còn thấy được mỗi ngày nơi những bản nhạc đầy sinh lực của miền Nam thanh bình hay của tiền đồn xa xưa, và ngày nay trên đường phố Hà Nội. Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một chế độ sống sót trong một giai đoạn lịch sử, nhưng tinh thần và di sản của dân tộc Việt Nam sẽ trường tồn. Người miền Nam trong nước hay tha phương nay đã khô lệ. Nhưng hôm nay, tại Eden Center, Trời đang khóc thay cho họ. Người Việt đang tiếp tục viết lịch sử Việt Nam. Chu Lynh |
Tháng Tư Đạn Lạc Tháng Tư đạn lạc cánh chim bay Thê thảm ngày buồn chuyện đổi thay Phố xá tình xuân đành đứt đoạn Ngày dài tháng muộn mấy ai hay. Thương đau ngày cuối tháng tư về Chia mối tình riêng đã hẹn thề Đêm cúi mặt tuôn rơi lệ khóc Nỗi buồn thổn thức dài lê thê. Bóng chinh nhân huyền ảo trong mơ Chiến sĩ hành quân giữ cõi bờ Chinh chiến mịt mù bom lửa đạn Lời thề xưa vẫn đợi mong chờ. Tháng Tư vận nước đeo tang trắng Đau nhói hồn ta vạn nỗi sầu Chia cắt đời nhau trong góc khuất Đôi bờ đôi hướng chạy về đâu. Bờ yêu biển nhớ sóng vun đầy Thấm nỗi lưu vong rượu uống say Đã qúa xa rồi ngày tháng cũ Bây giờ nhớ lại buổi chia tay Nước non ngàn dặm vẫn chờ nhau Số phận chia hai nối nhịp cầu Vận nước bao giờ thay đổi mới Ta về xây lại buổi ban đầu. Lê Tuấn Nỗi buồn tháng Tư Tháng Tư Chia tay Tháng Tư về nắng hạ còn lưa thưa Khói bụi hồng cơn mưa chiều rất lạ Bóng chim hốt hoảng xa bay cuối phố Gọi nhau về theo lối cũ em qua. Tháng Tư nở muộn loài hoa tím dại Chiến tranh về để lại những thương đau Những mặt người lấp ló nơi đầu ngõ Lo sợ điều gì? Muôn vạn nỗi sầu. Lời nghẹn ngào bao điều chưa muốn nói Chia cắt từ đây, nơi đất mẹ xa vời Cho thương khóc một người đi biền biệt Gói trọn trong tim ký ức bồi hồi. Tháng Tư lại về gợi nhớ thêm buồn tủi Biển chia xa đẩy lùi bóng chim bay Ngày vĩnh biệt xa nhau là xa mãi Sài Gòn buồn tháng Tư, ngày chia tay. Lê Tuấn Nỗi buồn Tháng Tư Xa Nhau Tháng Tư Xa nhau ngày đó tháng tư về Lạc mất tình xuân lỗi hẹn thề Chia cắt đôi bờ xa khuất bóng Cõi hồn thương nhớ buồn lê thê. Dấu đi góc khuất một hồn thơ Tiếng nấc chưa ngưng vẫn đợi chờ Ngôn ngữ còn tuôn đầy nỗi nhớ Lòng như chất chứa đầy trong mơ. Người yêu biển nhớ mối tình đầy Biền biệt tha phương giữa chốn này Mỏi cánh chim bay trời gió lạnh Buồn nào day dứt ngày chia tay. Cơn đau thân phận cũng qua mau Số phận chia đôi cả nỗi sầu Năm tháng vấn vương ngày ly biệt Tháng Tư, vận nước đã thay màu. Tế Luân |
NHỚ SÀI-GÒN Đình Duy Phương Tiếng ai than thở nhớ Sài-Gòn Thổn thức lòng tôi, ôi héo hon Phố cũ người xưa giờ đã mất Sài-Gòn ẩn hiện bóng vàng son. Sà-Gòn tôi, dáng hình mơ mộng Đẹp não nùng, hòn ngọc Viễn-Đông Bão táp phong ba bao thế hệ Qua lần mài dũa ngọc càng trong . Tôi vẫn nhớ quanh trường phượng vĩ Hoa phượng nhiều rợp đỏ đường đi. Ngôi nhà Thờ kiến trúc uy nghi Chùa lợp mái cong cong tuyệt mỹ. Catinat, đường Tự Do phơi phới Khách nước ngoài thăm viếng tới lui Kia Chợ Bến Thành bốn cửa lớn Đông Tây Nam Bắc gặp nhau cười ! Đường Nguyễn Huệ hoa xuân rực rỡ Mai vàng Thủ Đức rợp trời thơ Trái cây dưới tỉnh về nườm nượp Nhớ lại ngày Xuân, tưởng giấc mơ . Người tượng đá rơi dòng lệ nóng Nhớ Sài Gòn nhớ cả non sông Sóng trùng duơng nổi dậy trong lòng Sài Gòn hỡi Em còn đó không ? (Trích tập Thơ Đình Duy Phương 2004) THÁNG TƯ BUỒN Trong no ấm mà nằm gai nếm mật Hưởng thanh bình ngỡ kề cận binh đao Bởi vì ai đã phản bội đồng bào Nối giáo cho giặc tràn vào vây hãm . Trời Tháng Tư chưa phai màu ảm đạm Khí oan khiên cao ngất khắp phương trời Nơi quê hương hồn lạc phách chơi vơi Trên biển cả sóng trùng khơi nức nở Đất của mình tuồng như là mượn ở Ruộng nương nhà bị phá vỡ từ lâu Bao dân oan chịu giày xéo đớn đau Từ Nam chí Bắc người nghèo rên xiết Sau mấy mươi năm sao chưa hiểu biết Vẫn tin tập đoàn bức tử dân ta Công an quân đội ráng giữ San Hà Đừng cho kẻ ác được đà xâm lấn ! Tháng Tư buồn, vực dậy lòng hưng phấn Thế nước nhà nghiêng ngửa cán bàn cân Nền Tự Do Dân Chủ nặng vạn lần Toàn Dân gánh vác dự phần đuổi giặc . Đình Duy Phương. California 2004. DỆT NỐT VẦN THƠ Anh ạ, tháng ngày mau quá nhỉ Giờ này nơi ấy có mưa không Có thời gian đọng dòng bi lụy Cho em giữ mộng chí tang bồng . Dệt nốt vần thơ kẻo gió mong Canh khuya giá lạnh ngỡ đêm Đông Ngoài sân cây lá khua nghiêng ngả Mưa xuống tuôn dòng, gió chuyển giông … Có phải người đang mãi đợi mong Hồn thơ mở lối nhớ non sông Bao mùa chinh chiến qua ngàn dặm Ngọn gió giao duyên kết chữ đồng. Buổi sáng ánh dương hồng nắng đẹp Chiều hoàng hôn xuống tím màn đêm Anh linh Chiến Sĩ còn vương vấn Chẳng biết bây giờ có nhớ tên Bia đá ngàn năm còn đứng đợi Hỏi người có giữ được trăm năm Tình thơ dệt nốt nghe vời vợi Nhạc khúc ru hồn anh ghé thăm. Đình Duy Phương USA. April, 2023 |
BUỒN ( Nhân Kỷ Niệm 30-tháng Tư Đen -THƯ KHANH Tự Vịnh ) Không gì buồn bằng tuổi già , Chân đi không vững mắt mờ kính đeo . Muốn làm thơ ưót át… tình yêu , Tình khô như củi trớ trêu thế này . * Thơ làm tranh đấu chờ thời , Xông pha cứu nước – để chơi ngồi nhìn . Quê Hương ơi ! Xin cứ bình yên , Chờ Thời Vận Tốt sẽ nên cơ đồ . Cờ vành ba sọc tung hô , Cơm No Áo Ấm Tự Do ta về . THƯ KHANH -4/19/2023 . |
CHIỀU CHIỀU “Chiều chiều ra đứng ngõ sau T rông về quê mẹ ruột đau chín chiều” Tôi trông ngõ sau Tôi ngóng ngõ trước Quê hương nơi đâu tôi vẫn không tìm được Chỉ vang vọng cả ngàn năm lệ thuộc Đau đớn , xót xa dân tôi sau trước Vào rừng, xuống biển, ngọc trai, ngà voi, châu báu, vàng bạc Đều buộc cống dâng thiên quốc Ngậm cay, nuốt đắng, cắn răng chịu nhục Rồi cũng vùng lên bất khuất Nước Nam luôn là của dân Nam Vững vàng, Tự Do , Độc Lập Không thể nào đồng hóa những người không hề khiếp nhược Dẫu có lần có người hèn nhát Cõng rắn cắn gà nhà, giết dân, dâng nước Tội đồ dân tộc Thì liền có Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung… Trước sau, hàng hàng, lớp lớp anh hùng Nung nấu sục sôi lòng dân Vì quê hương quang phục Lịch sử chứng minh sau trước Nhưng sinh nhầm thời nhiễu nhương, lòng đành đau xót Thân phận nhược tiểu, cường quốc tranh đua, giành giựt Còn kẻ phản quốc bán nước cầu vinh Bất đắc dĩ xa quê lòng dạ không đành Nơi xứ lạ xót xa không dứt Ôi dân tôi. Dân tôi ơi Là lúc ta lại mau vùng dậy Hãy mau cùng nhau, hàng hàng , lớp lớp Đấu tranh cho ngày lại vinh quang dân tộc Đời đời DÂN CHỦ, TỰ DO, ĐỘC LẬP Chương Hà |
HỒN DÂN TỘC “Những ai đã chết vì sông núi Sẽ sống muôn đời với núi sông” Đất nước tôi sanh bao vị anh hùng Để tôi hảnh diện làm người dân Việt Nợ núi sông tôi vững tâm gánh vác Khi giặc thù còn giày đạp quê hương Người dân tôi sẽ hy sinh tới giọt máu cuối cùng Quyết gìn giữ sơn hà từng tấc đất Có ngàn người bị giết Hàng triệu người sẽ bất khuất vùng lên Sẽ cùng nhau một dạ, một lòng Quét sạch hết kẻ thù dân tộc Sẽ cương quyết giữ tự do, độc lập Để muôn dân có đời sống bình an Thân nhược tiểu nhưng chưa hề khuất phục ngoại bang T rên thế giới vẫn Việt Nam , đời đời ngạo nghễ Chương Hà |
TRONG GIẤC MƠ Trong giấc mơ Tôi thấy quê hương loang lỗ Nơi nơi đã thuộc về người T ôi thấy dân tôi cuối đầu lấm lét Phủ phục thân phận tôi đòi T iếng mẹ sinh tự nhiên sửa đổi Cho phù hợp tiếng giặc thù Bán cả tiền đồ hậu thổ Hại dân, một lũ Cộng nô Tôi thấy trẻ thơ chào đời bỡ ngỡ Bập bẹ tiếng nói ngây ngô Hai chữ mẹ cha đã bỏ Thế bằng nị ngộ bô bô Xót xa, tủi nhục Tiếc mình phận mỏng Làm sao vá víu cơ đồ Ông cha gầy dựng bằng xương máu Hồn oan bao người gục ngã máu chưa khô Tổ quốc gắn bó Tình chẵng phai màu Tôi thấy giấc mơ tôi khốn khổ Lệ còn đẩm ướt cả đêm thâu Chương Hà |
MẤT TÍCH (Truyện xóm tôi 30 tháng tư 1975.) Sau ngày 30 tháng tư 1975 bao nhiêu gia đình gặp cảnh tang thương mất mát. Thành phố đã ngừng tiếng súng, cộng quân đã quản trị thủ đô Sài Gòn. Người ta lần lượt sớm muộn trở về với gia đình, dù là tấm thân tàn nhiều thương tích, dù lòng còn hằn nỗi đau của người bại trận sau cuộc chiến tranh dài. Nhưng xóm tôi có bốn người mất tích mà vẫn chưa thấy trở về và cũng chẳng nghe tin tức gì từ họ. Chồng chị Kim Oanh là lính đóng ở Tây Ninh. Anh không về nhà cha mẹ ruột cũng chưa về với vợ con. Không biết giờ này anh đang ở đâu? Chị Kim Oanh và hai đứa con nhỏ ngày đêm trông ngóng tin anh. Chị Hương cũng như chị Kim Oanh, có một con nhỏ và bụng thì đang mang bầu vài tháng. Chồng chị là đại úy đóng quân ngay Long An, chẳng xa Sài Gòn là bao. Chẳng lẽ anh không kịp chạy về với vợ con trong lúc dầu sôi lửa bỏng? Người thân và hàng xóm của hai chị không ai dám nghĩ tới những xác chết vô thừa nhận, có xác được đắp chiếu, có xác nằm xấp nằm ngửa đầy máu me chẳng rõ mặt mày bên những đống rác, những vật dụng bị đốt cháy ngùn ngụt hay đã cháy xong còn lại một đống tro tàn lửa bỏng ở khắp các tỉnh lộ, ở ngoài đường phố Sài Gòn của những ngày tàn cuộc chiến. Họ đều lạc quan an ủi và cầu mong rằng biết đâu anh ấy đang lẩn trốn đâu đó chưa dám ra trình diện chính quyền hoặc may mắn hơn đã…xuống tàu ra khơi đi Mỹ.. Trường hợp thứ ba là nhà chị Yên. Thằng Bảo con trai lên 7 và Ngọc đứa con gái lên 5, chẳng liên quan gì đến lính tráng mà cũng biệt tăm biệt tích. Ngày 29 tháng tư chị Yên dẫn hai con đến nhà cậu Dũng, người em ruột ở Sài Gòn gần bến Bạch Đằng để bàn tính cùng họ tìm cách xuống tàu chạy trốn khỏi Sài Gòn đang mất vào tay Việt Cộng. Khi đã quyết định chị Yên để hai con ở lại, vội vã về nhà đợi chồng sẽ từ trại lính trở về cùng sửa soạn hành lý cần thiết tối thiểu để mang theo cuộc hành trình. Khi vợ chồng chị Yên quay lại nhà Dũng thì cả nhà mới tá hỏa hai đứa con chị Yên đã đi đâu mất rồi, tìm hoài không thấy. Chúng đi chơi đâu đó hay đợi bố mẹ lâu nên sốt ruột ra ngoài đi tìm chăng? Cả hai gia đình lo lắng tìm con tìm cháu không thấy, chẳng còn tâm trí nào mà ra bến Bạch Đằng mong được lên tàu như dự tính nữa. Vợ chồng chị Yên đau khổ bao nhiêu thì vợ chồng cậu Dũng cũng khổ đau bấy nhiêu, thêm lòng dày vò ân hận vì không trông nom để thất lạc hai cháu nhỏ trong thời điểm nhà tan cửa nát này. Sau ngày 30 tháng tư, có người hàng xóm quả quyết với vợ chồng chị Yên là họ thấy thằng Bảo và con Ngọc ở bến tàu Sài Gòn, họ cũng tìm cách chen lấn đám đông để lên tàu nhưng không được. ………………….. Một năm trôi qua, chị Kim Oanh vẫn không nghe tin tức của chồng nên chị làm bàn thờ chồng, lấy ngày 30 tháng tư làm ngày giỗ. Chị Yên cũng định lập bàn thờ hai con cho có hương khói ấm lòng nếu chúng đã vong mạng trong cái ngày 30 tháng tư định mệnh đó. Nhưng anh Yên, không biết để an ủi tinh thần vợ hay anh vẫn lạc quan thật sự, anh nói rằng cứ chờ đợi và biết đâu sẽ có ngày tìm được tung tích hai con. Chị Hương tuy vẫn không có tin tức chính thức của chồng, nhưng chị nghe loáng thoáng từ mấy người lính của chồng chị, kẻ thì nói rằng vẫn gặp anh những ngày cuối tháng tư, người thì nói anh đã lên tàu ra khơi. Những tin tức mong manh đó đã là sự thật. Một hôm chị Hương nhận được thư chồng từ …trại tù cải tạo, chị mới vỡ lẽ ra chồng đã rời Việt nam đến đảo Guam và trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín. Hiện tất cả đang bị giam cầm chứ không được trở về ngay với gia đình như họ đã lầm tưởng đã mong muốn khi quyết định hồi hương. Thời buổi bao cấp nghèo đói một nách hai con thơ lại phải lo cho người chồng đang tù tội chị Hương đã không thể gồng gánh lâu dài nổi. Chị trách chồng đã đến được bến bờ tự do mà còn đâm đầu quay trở về Việt nam để khổ cho chính bản thân mình và khổ cho cả vợ con. Cha mẹ chồng đều qua đời chỉ còn anh chị em mỗi người một phận dù có thương anh cũng chẳng ai giúp được gì. Hai năm sau chị Hương bán nhà. Hàng xóm bàn tán là chị Hương lấy chồng cán bộ, chị dọn đi nơi khác để tránh những dèm pha dị nghị của hàng xóm. Có người còn ác miệng kể chi tiết hơn là chị đã gởi trả hai đứa con về bên nội để tự do vui duyên mới.? Năm năm sau chồng chị Hương ra tù và có về xóm cũ, căn nhà cũ đổi chủ. Anh sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa trẻ đẹp trai oai hùng ngày nào mà chỉ sau mấy năm tù tội cộng sản đã biến hình tiều tụy già nua. Không gặp vợ con, anh quay về làng quê, không biết những người thân của anh còn có ai ? Hai đứa con anh đang ở với mẹ nơi nào ? hàng xóm ai cũng cảm thương và tò mò thắc mắc nhưng không ai biết được câu trả lời. ************ Gia đình cậu Dũng đi Mỹ theo diện HO tháng hai năm 1992. Mười bảy năm trôi qua, cả gia đình chị Yên và gia đình cậu Dũng luôn mang nặng nỗi đau đớn trong lòng nhưng họ vẫn hằng mong có dịp tìm ra tung tích hai đứa trẻ thất lạc dù mong manh như mò kim đáy biển. Ở Việt Nam không có tin tức gì của chúng thì biết đâu sang Mỹ sẽ tìm ra manh mối. Chị Yên gởi Dũng một túi hồ sơ gồm giấy tờ khai sinh và hình ảnh mới nhất so với thời điểm 1975 của thằng Bảo, con Ngọc để sang đến Mỹ cậu Dũng sẽ đăng tin tìm hai cháu. Sau hai năm nhờ các cơ quan, hội hồng thập tự tại Mỹ tìm kiếm không thành công cậu Dũng đành báo tin cho anh chị. Tình trạng lại trở về như thuở ban đầu, chẳng biết chúng sống chết nơi đâu? Thế là ba gia đình có người thân “mất tích” hôm 30 tháng tư năm 1975 ở xóm tôi đều đã có những đoạn kết buồn. Gia đình chị Yên vẫn tiếp tục cố nuôi ngọn lửa hi vọng mỏi mòn suốt mấy chục năm qua hai đứa con còn sống đâu đó trên cõi đời này nhưng họ vẫn thắp nhang cho chúng vào mỗi năm 30- tháng Tư. Gia đình chị Kim Oanh, chồng chị mãi mãi không một nấm mồ. Nhưng hình ảnh anh trên bàn thờ vẫn hương khói khi tháng Tư về Gia đình chị Hương. Người chồng đã vì thương nhớ vợ con mà dại dột từ phương trời tự do quay trở về Việt Nam vừa rơi vào tay cộng sản, chưa gặp vợ, chưa nói với vợ lời vui mừng tao ngộ đã vào vòng tù tội. Gia đình tan nát, tình nghĩa vợ chồng bạc bẽo chia lìa. Bao nhiêu năm qua, vợ chồng con cái họ có dịp nào gặp lại nhau chưa? Nguyễn Thị Thanh Dương ( March 24, 2023) ANH CUẢ BÉ MÙI. Anh vừa ra trường là tân binh, Chưa có người yêu chưa gia đình, Em là con bé nhà hàng xóm, Bé lắm, nên chỉ là em anh. Lần nghỉ phép anh về thăm nhà, Thấy anh, em hớn hở chạy qua, Hai anh em chụp chung tấm ảnh, Em thấp anh cao trước cửa nhà. Tặng em hình này anh ghi lời: “ Kỷ niệm một lần về phép vui…” Nét chữ cứng cỏi mà bay bướm, Anh ký tên “Anh của bé Mùi “. Bé Mùi tuổi chỉ mới mười hai, Anh người lính trẻ tuổi đôi mươi, Tình anh em giữa mùa chinh chiến Về đâu ? Thời gian sẽ trả lời. Em rất thích lấy hình ra xem, Người anh hàng xóm nắm tay em, Anh mặc quân phục trang nghiêm lắm, Em còn khờ chưa biết làm duyên.. Anh là lính trận chốn xa xôi, Thỉnh thoảng mới về thăm nhà thôi, Em đã lớn thêm vài tuổi nữa, Em thấy nhớ “ Anh của bé Mùi “. Anh là lính trận đi khắp nơi, Áo tân binh ấy đã cũ rồi, Người tân binh đã quen sương gió, Em thấy thương “ Anh của bé Mùi “. Anh chẳng hiểu em, anh vô tình, Trong lòng em ghi bóng hình anh, Anh và em càng thêm xa cách, Khi đất nước mình còn chiến tranh.. Và đất nước thời cuộc bể dâu, Tháng Tư bảy lăm anh về đâu ? Bé Mùi nơi quê người xứ lạ, Có lẽ không bao giờ gặp nhau . Tấm ảnh ngày xưa đi theo em, Kỷ niệm này em sẽ không quên, Dù nét chữ mờ theo năm tháng, Dù em sẽ gìa theo thời gian. “ Anh của bé Mùi” ngày xưa ơi, Hình bóng anh quanh quẩn trong đời, Anh còn sống hay anh đã mất ? Anh vẫn là “ Anh của bé Mùi “.. Nguyễn Thị Thanh Dương. ( July,3, 2016) Mong rằng “Anh của bé Mùi” vẫn còn sống đâu đó trên cõi đời này. Cám ơn tấm ảnh ngày xưa đã cho tôi đề tài bài thơ. |
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ SAU CUỘC CHIẾN. Hôm nay 29/4/2023 tôi ngồi một mình trong phòng, trước mặt là màn hình computer. Ngày mai là ngày mà ai là người VN lưu vong đều phải nhớ. Trong tôi ngập tràn nỗi nhớ chồng. Thật tếu và mắc cỡ khi mình lại nói ra điều đó khi tuổi không còn trẻ. Hình bóng người lính đã bị bào mòn và không thể xuất hiện 48 năm rồi. Anh chàng đại úy phong sương ngày xưa của tôi đã chết. Chết cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái áo lính của chồng tôi mặc mỗi khi đi chăn trâu, cắt cỏ, cấy lúa trồng khoai ngoài đồng cũng đã rách nát không còn. Người lính đã tan hàng đã bị xóa sổ một cách bi đát, còn những người vợ lính thì sao? Nếu trẻ nhất họ cũng đã trên 65 tuổi, thời gian quá dài để thương đau đọng lại làm những tì vết không thể xóa mờ. Nước mắt không còn bao nhiêu để khóc cho cuộc đời còn lại. Tôi lại nhớ đến những người phụ nữ của phe thắng cuộc . Chứng nhân có thật là những người trong gia đình chồng tôi. Họ được gì và mất gì sau khi tàn cuộc chiến. …… Tôi đi theo mẹ chồng đến đốt hương bên ngoại. Ông bà ngoại của chồng tôi có 5 cô con gái và một người con trai út. Mẹ chồng tôi là đứa con gái thứ hai trong gia đình. Cả 5 người con gái bây giờ đều đã già, con cháu thật đông, cuộc sống không giàu có lắm nhưng đều khá giả hoặc đủ ăn đủ mặc. Người con trai út của ông bà ngoại chồng tôi đi theo Cách Mạng chống Tây hiện là bộ đội phục viên mang quân hàm thượng úy. Chồng tôi đại úy ngụy, cậu chồng thượng úy cách mạng. Hai chức ngang nhau ở hai chiến tuyến đối nghịch. Thật sự tôi chưa từng gặp mặt ông thượng úy này chỉ nghe mẹ chồng mừng vui báo tin ông còn sống và vội vã thu xếp về quê theo lời nhắn gửi của ông. –Mụ yên tâm về làng, mọi việc có bầy choa lo. Không răng mô. Tôi về quê chồng, chưa quen khí hậu nơi này, chưa biết tắm sông, chưa quen giặt đồ ở bến, chưa biết nấu cơm bằng rơm, chưa quen ăn nước ruốc, hai vai còn sưng to vì tập gánh nước từ dưới sông về nhà. Chỉ mới mấy ngày để tập tành mọi thứ, mẹ chồng tôi đã dẫn tôi đến lạy bàn thờ bên ngoại. Nhà bên ngoại cách nhà bên nội chỉ qua một con đường, ngăn cách bởi cái ao hồ. Cho nên muốn qua ngoại phải đi con đường vòng, qua mấy nương vườn nhà người khác, cái chợ, cây đa, đình làng, ra đường lộ đi một lúc mới tới nhà. Nếu đứng ở bên nhà ngoại kêu to, ới một tiếng lớn là nhà bên nội có thể nghe. Khi cha chồng tôi xin hỏi cưới mẹ chồng. Lễ hỏi đã xong mà cha chồng tôi phải đến nhà vợ làm rể ba năm mới được cho cưới. Làm rể ngày xưa không dễ, phải làm như việc nhà mình, tận tụy và siêng năng mới cưới được vợ. Cha chồng tôi là con con trai đích tôn, là con cầu con khẩn của dòng họ hiếm hoi con cái. Được cái cha chồng tôi rất hiền, bên đàng gái muốn gì ông cũng chìu để cưới được vợ. Mẹ chồng tôi giỏi giang, buôn bán tháo vát lo cho gia đình nên bên ngoại không muốn gả liền để còn nhờ cậy. Thật không may, cưới được mấy năm cha chồng tôi mất sớm. Dù tuổi đời còn trẻ, mẹ chồng vẫn ở vậy lo cho ba đứa con và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng. Nghe kể lại, mùa xuân năm nào đó ghe tàu của Tây chạy tuần tra dưới con sông Ô Lâu trước nhà bên nội, du kích quân núp ở nhà dân xả súng bắn tàu. Lính Tây nổi giận đổ bộ lên bờ đốt sạch nhà cửa, ruồng bố du kích. Lửa cháy khắp làng. Mẹ chồng tôi chỉ kịp lôi ba đứa con chạy núp dưới ao hồ, tính chạy lên dẫn cha mẹ chồng chạy trốn nhưng ngọn lửa đã bùng lên dữ đội, lính Tây cầm súng ruồng bố la hét om trời. Mẹ chồng tôi ôm con không dám khóc, bụm miệng các con không cho la. Căn nhà của gia đình và những nhà lân cận cháy phừng phừng trước mặt. Tây rút đi, xác ông bà nội chồng tôi cháy co rút tội tình. Năm đó mùi thây người khét lẹt bao trùm không gian, ngày đại tang của cả làng. Nhà nào cũng có mất mát cũng có người chết thật thê lương. Đó là ngày 12 tháng giêng năm nào tôi không biết. Chỉ biết đó là ngày kỵ giỗ ông bà nội chồng. Tôi đến đây để ra mắt tổ tiên bên chồng nên tôi đảo mắt tìm bàn thờ. Nơi thờ phụng tổ tiên nhà miền Trung không giống miền Nam. Miền Nam ngay gian giữa nhà trang trọng đặt bàn thờ, bước vào nhà là thấy ngay như muốn nhắc nhở khách tới nhà phải biết lịch sự, phải tôn trọng tổ tiên gia chủ. Bàn thờ là một bộ tủ thờ rất đẹp chạm khắc tinh xảo ( hoa văn và chất lượng gỗ tùy theo kinh tế của gia chủ). Tủ thờ cao khỏi đầu người, trên bàn thờ bộ lư đồng để giữa, bát nhang để phía sau, hai chân đèn bằng đồng để hai bên. Dĩa đựng trái cây khá to được đặt trên một cái giá ba chân thật đẹp. Hai bên là hai bình bông để cúng. Tủ thờ phía trước chạm trổ, cửa mở ở hai bên hông dùng để chứa những vật trang trọng quý giá. Ngày lễ hay Tết bàn thờ rực rỡ hoa trái, hương đèn. Nhà người miền trung khác hẳn, vị trí bàn thờ cũng ở giữa nhà nhưng được được che bằng một tấm màn ngăn cách. Phía trước đặt một bộ bàn ghế dài dùng để tiếp khách. Chỉ trong những ngày kỵ giỗ tấm màn mới được kéo ra để gia đình làm lễ. Bàn thờ hơi thấp được đặt phía trong với nhiều bát hương đặt cao thấp khác nhau theo thứ tự vai vế gia phả trong gia đình. Bàn thờ miền Nam chỉ có một bát hương để cắm nhang, bàn thờ miền Trung có rất nhiều bát hương nên trông có vẻ âm u và hơi …dễ sợ. Tôi vén màn đi vào và đốt hương. Không biết bát hương nào là của ông bà ngoại. Thôi thì cắm hết và …thật vô duyên không biết phải khấn gì với ai, tên họ gì. Tôi hồi hộp và lúng túng chỉ biết niệm lâm râm Nam Mô A Di Đà Phật. Mẹ chồng tôi giới thiệu tôi chào Mợ Tuấn. Mợ thấp người, khắc khổ và nhìn rất lam lũ. Hai người đàn bà có chồng ở hai phía Quốc – Cộng chào nhau. Mợ Tuấn là một người phụ nữ xứng đáng được mẹ chồng tôi trân trọng. Mặc dù cậu là con trai độc nhất trong gia đình được cha mẹ và các chị thương yêu bảo bọc, nhưng cậu bỏ tất cả gia nhập hàng ngũ kháng chiến chống Pháp lúc mợ vừa cấn bầu đứa con trai đầu lòng. Mợ ở nhà làm ruộng, phụng dưỡng cha mẹ chồng cho đến ngày ông bà ngoại chồng tôi mất. Con trai mợ hiện giờ đã cưới vợ sắp sửa sinh con thì được tin chồng vẫn còn sống và chuẩn bị trở về đoàn tụ. Mợ vui vẻ tươi cười với những tin vui chiến thắng. Ngồi nghe mợ nói chuyện, niềm vui chờ sum họp với chồng, tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận của mình. Đây cũng là gia đình nhưng người phụ nữ trước mặt chờ tin vui. Tôi và chồng là những người đối lập sẽ nhận những bất trắc, trả thù vì mình là Ngụy. Gia đình thứ hai tôi đến để đốt hương và ra mắt là nhà của chú Minh, chú họ của chồng tôi. Ông cố chồng sinh được hai người con trai. Ba chồng tôi là con nối dõi của người anh, chú Minh là con nối dõi người em. Nghe thì xa nhưng với gia phả trong họ tộc thì rất gần. Vì cha chồng tôi và hiện giờ chồng tôi đang là trưởng tộc. Người chú họ này cũng bỏ nhà đi kháng chiến, người vợ mới cưới phải ở nhà phụng dưỡng cha mẹ chồng và cũng sinh được một con trai độc nhất. Điều khác giữa mợ Tuấn và thím Minh là mẹ chú Minh vẫn còn sống nhưng hai mắt đã mờ. Con dâu của thím Minh vừa sinh đôi hai đứa cháu trai cực kỳ kháu khỉnh dễ thương. Bà cố đang đong đưa hai cái nôi mà người ở đây gọi là dứng. Đó là cái nôi trẻ con nhưng có bốn sợi dây được móc lên cao, muốn ru người ta nắm bốn sợi dây và lắc. Nghe tiếng má chồng tôi, mụ nghiêng người lắng nghe: – Mụ Thi về khi mô rứa? Có vợ thằng Trai về khôn? Tôi lên tiếng chào và bước tới nắm tay mụ. Bàn tay nhăn nheo của những người già lao động quanh năm. Mụ chỉ bàn thờ cho mẹ con tôi vào thắp hương và báo tin chú Minh đã liên lạc nhưng chưa về đến nhà. Tôi ngồi nhìn hai thằng bé, cưng quá là cưng với gương mặt bụ bẫm. Mẹ chồng tôi còn mê chúng hơn vì tôi chỉ sinh được con gái, còn đây là hai đứa cháu trai. Quan niệm ” Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đúng vô cùng ở những gia đình này. Con trai cưới vợ đẻ con, con dâu mặc dù không có chồng bên cạnh vẫn chăm sóc cha mẹ chồng, nuôi con duy trì huyết mạch nối dõi tông đường. Những người như mợ Tuấn, thím Minh hay mẹ chồng tôi là những người đàn bà điển hình trong xã hội VN. Khi đã lấy chồng họ sống và hy sinh cả đời cho gia đình nhà chồng. Đối với họ chăm sóc mồ mả gia nương nhà chồng, đẻ con trai và duy trì nòi giống là nhiệm vụ mà họ phải tuyệt đối làm tròn. Vì gia đình bên chồng tôi chuyên về nghề mộc, nên dựng lại căn nhà với đầy đủ vật liệu là chuyện dễ dàng. Chỉ một tuần lễ trên nền nhà bỏ hoang ngôi nhà tôi đã được thành hình. Dựng lại căn nhà xong, chưa kịp xếp đặt mọi thứ, chồng tôi được lệnh khăn gói đi học tập cải tạo. Từ đó không có tin tức, không thấy trở về để biết mặt và chào hỏi hai người thân cách mạng đã kêu gọi anh về đây: “Không răng mô, về làng có bầy choa lo”. Chú Minh về làng trước, chú ra dáng là một bộ đội Bác Hồ. Chú không nói về cấp bậc trong quân đội nhưng để trả lời cho câu hỏi vì sao mấy chục năm chú không liên lạc với gia đình thì thím Minh được nghe sự thật đau lòng: “Chú đã lập gia đình với một nữ đồng chí bộ đội và lễ tuyên bố được đảng đứng ra tổ chức” Chú Minh về thăm mẹ, thăm gia đình rồi vội vã về lại Bắc. Chú không thể can thiệp hay giúp đỡ gì thằng cháu sĩ quan Ngụy đang không biết được giam giữ ở đâu. Hành trang chú mang về Bắc là một số vật dụng của gia đình tôi khi chú ỉ ôi với mẹ chồng tôi: “Mụ về đây không có điện thì để lại làm gì, mụ cho lại các cháu của Mụ ngoài ấy.” Từ lúc chú Minh về rồi đi, thím Minh như một người khác, thím gầy rạc đi trông thấy. Sự uất ức oán hận khiến người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó thay đổi. Chỉ cần ai đến nhà, hỏi thăm chú Minh thì cơn giận trong thím trỗi dậy, sự ghen tức khiến thím nói những điều không tốt về người chồng thím từng tôn trọng. Người mẹ chồng tội nghiệp của Thím không thể làm gì hơn chỉ biết khóc và chịu đựng những cơn giận dữ của con dâu. Gia đình ngày trước sống bình yên hạnh phúc bao nhiêu bây giờ chìm đắm trong bầu không khí oán hờn thiếu đi sức sống. …. Rồi cậu Tuấn cũng về làng. Người con trai sinh ra cậu chưa một lần gặp mặt giống cậu như khuôn đúc. Hai cha con ôm nhau mừng rỡ. Mợ Tuấn được chồng chìu chuộng hết lòng. Mợ sống những ngày hạnh phúc nhất sau mấy chục năm vò võ nhớ mong. Mợ trẻ ra, tươi tắn và chăm chút bản thân hơn. Tôi đã thấy nụ cười và ánh mắt rạng ngời của mợ mà thật thương cho thân phận đàn bà. Mẹ chồng tôi và các người chị của cậu Tuấn dành cho cậu những đón tiếp yêu thương và long trọng nhất. Người em trai quý tử của gia đình đã trở về, chức lớn trong chế độ mới làm họ thấy mình hạnh phúc hẳn ra. Rồi thì những ngày về thăm quê cũng hết, như bong bóng lên cao sẽ vỡ, cậu Tuấn trước khi về lại miền Bắc, thú nhận với các chị mình đã có một gia đình ấm êm với ba đứa con đã trưởng thành cả trai lẫn gái. Cậu chỉ về đây để thăm còn gia đình chính thức đang ở ngoài kia. Ôi những người đàn ông bội bạc đã làm tan nát trái tim của những người vợ thủy chung son sắt. Mợ Tuấn ngất xỉu khi nghe sự thật. Mợ không hung hăng hờn giận như thím Minh, mợ chỉ khóc và lặng lẽ sống trong câm nín tủi thân. Mẹ chồng tôi và các dì, dượng không biết phải nói gì. Sự thật bây giờ cũng không thể làm gì khác. Những đứa cháu dù sao cũng ruột thịt, mấy chục năm xa nhà cậu cũng phải có người chăm sóc. Và thế các mụ đồng ý chấp nhận gia đình bên kia, cậu về tay không nhưng khi cậu đi ê hề là quà cáp các mụ gửi về cho em dâu, cho cháu. Cậu Tuấn thành công đại thành công. Khi mẹ chồng tôi nhắc đến đứa con trai tội nghiệp không biết bây giờ ra thế nào. Cậu Tuấn khuyên mẹ chồng tôi nên chờ đợi. Những người có tội với nhân dân phải nhận hình phạt. Nếu học tập tốt, thông suốt đường lối cách mang sẽ được khoan hồng về sớm. Từ ngày cậu Tuấn ra Bắc lại, mợ Tuấn và các chị bên chồng không còn khắng khít như xưa. Đối với mợ, các chị chồng chấp nhận bên kia là không công bằng với mợ. Những gì mợ đã cống hiến cho gia đình coi như không còn giá trị. Gần như cả cuộc đời của mợ đã chờ đợi hoang uổng. Bây giờ mợ đã thật sự mất chồng, chỉ toàn tâm toàn ý lo cho con trai và các cháu. Hòa bình đã trở về trên mảnh đất chịu nhiều thương tổn của chiến tranh. Người lính của hai bên đã rời xa chiến trường. Người vợ của phe thắng cuộc cũng như bên thua được gì và mất gì? Như Mợ Tuấn hay thím Minh đoàn tụ với chồng trong u uất, oán hờn. Như tôi chia ly chồng trong nước mắt. Bao nhiêu bi ai đều đè nặng trên đôi vai bé nhỏ của người phụ nữ VN. Chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt nhưng những dư chấn cho cuộc chiến ý thức hệ mãi mãi vẫn còn. Tôi đã sống trọn vẹn những ngày tháng vất vả gian lao chờ chồng trong chế độ mới. Những nhân vật chính tôi kể trên đây đều là thật và đã thành những người muôn năm cũ. Không ai đúng hoặc sai hoàn toàn. Mỗi người đều bị ràng buộc bởi vòng xoay của chiến tranh ý thức hệ và vô thường trong cuộc sống. Đàn bà chúng tôi luôn luôn là nạn nhân trong cuộc chiến. Người đàn ông không thế nào hiểu được sự kiên trì chịu đựng của phụ nữ khi hy sinh cho người mình yêu thương. Trái tim phụ nữ cũng bằng thịt nhưng sự dũng cảm nhiều khi sắt đá cũng phải chịu thua. Nguyễn thị Thêm 29/4/2023 |
NHỚ SÀI-GÒN Đình Duy Phương Tiếng ai than thở nhớ Sài-Gòn Thổn thức lòng tôi, ôi héo hon Phố cũ người xưa dường đã mất Sài-Gòn ẩn hiện bóng vàng son. Saigon tôi, dáng hình mơ mộng Đẹp não nùng, hòn ngọc Viễn-Đông Bão táp phong ba bao thế hệ Qua lần mài dũa ngọc càng trong . Tôi vẫn nhớ sân rường phượng vĩ Hè về hoa phượng đỏ đường đi. Ngôi nhà Thờ kiến trúc uy nghi Chùa lợp mái cong cong tuyệt mỹ. Catinat, đường Tự Do phơi phới Khách nước ngoài thăm viếng tới lui Khu Chợ Bến Thành bốn cửa lớn Đông Tây Nam Bắc gặp nhau cười . Đường Nguyễn Huệ hoa xuân rực rỡ Mai vàng Thủ Đức rợp trời thơ Trái cây dưới tỉnh về nườm nượp Nhớ lại ngày Xuân, tưởng giấc mơ . Người tượng đá rơi dòng lệ nóng ! Nhớ Sài-Gòn nhớ cả non sông Sóng trùng duơng nổi dậy trong lòng Sài-Gòn hỡi Em còn đó không ? Đình Duy Phương California 2004 |
DỆT NỐT VẦN THƠ Anh ạ, tháng ngày mau quá nhỉ Giờ này nơi ấy có mưa không Có thời gian đọng dòng bi lụy Cho em giữ mộng chí tang bồng . Dệt nốt vần thơ kẻo gió mong Canh khuya giá lạnh ngỡ đêm Đông Ngoài sân cây lá khua nghiêng ngả Mưa xuống tuôn dòng, gió chuyển giông … Có phải người đang mãi đợi trông Hồn thơ mở lối tới non sông Bao mùa chinh chiến qua ngàn dặm Ngọn gió giao duyên kết chữ đồng. Buổi sáng ánh dương hồng nắng đẹp Chiều hoàng hôn xuống tím màn đêm Anh-linh Chiến Sĩ sầu vương vấn Chẳng biết bây giờ có nhớ tên Bia đá ngàn năm còn đứng đợi Hỏi người giữ được đến trăm năm Tình thơ dệt nốt nghe vời vợi Khúc nhạc ru hồn anh ghé thăm. Đình Duy Phương USA. April, 2023 |
Kể Chuyện Tháng Tư Tháng tư buồn muốn khóc Ký ức chợt dâng đầy Sài Gòn niềm thương nhớ Nỗi buồn ngày chia tay. Tiếng đời nghe rất lạ Lời ai oán mọi miền Cộng sản vừa chiếm mất Hết tự do nhân quyền. Mùi thuốc lào khét lẹt Hàm răng hô mỏ cầy Cái nón cối ngồi xổm Nói toàn chuyện trên mây. Chủ nghĩa là không tưởng Cướp bóc là thực hành Đổi tiền là chính sách Ba lần cướp tung hoành. Giải phóng rồi mới biết Đảng bán nước hại dân Gian manh đầy tham vọng Tư bản đỏ vong thân. Lòng dân đầy oán hận Cộng cuồn muốn cầu vinh Đốt dân đen trên lửa Dối trời để mưu sinh. Bốn mươi tám năm mất Nam Bắc còn chưa hoà Loạn kiêu binh vẫn thế Quê hương mắt lệ nhoà. Thái bình dương mây trắng Nhìn cố quốc phân ly Quốc, Cộng chưa phân định Lòng dân còn hoài nghi. Tế Luân Tháng tư buồn 04-26-23 |
THÁNG TƯ BUỒN Trong no ấm mà nằm gai nếm mật Hưởng thanh bình ngỡ kề cận binh đao Bởi vì ai đã phản bội đồng bào Nối giáo cho giặc tràn vào vây hãm . Trời Tháng Tư chưa phai màu ảm đạm Khí oan khiên cao ngất khắp phương trời Nơi quê hương hồn lạc phách chơi vơi Trên biển cả sóng trùng khơi nức nở Đất của mình tuồng như là mượn ở Ruộng nương nhà bị phá vỡ từ lâu Bao dân oan chịu giày xéo đớn đau Từ Nam chí Bắc nghẹn ngào rên xiết. Sau mấy mươi năm sao chưa hiểu biết Vẫn tin tập đoàn bức tử dân ta Công an quân đội ráng giữ San Hà Đừng cho kẻ ác được đà xâm lấn ! Tháng Tư buồn, vực dậy lòng hưng phấn Thế nước nhà nghiêng ngửa cán bàn cân Nền Tự Do Dân Chủ nặng vạn lần Toàn Dân gánh vác dự phần đuổi giặc . Đình Duy Phương California 2004. |

Tưởng Niệm Ngày Sài Gòn Trong Cơn Hấp Hối, 29 Tháng Tư! Tháng Tư Tưởng Nhớ Tháng tư luống những ngậm ngùi Tháng tư sao chẳng thấy vui trong lòng Tháng tư phận số long đong Tháng tư bạn đã hết mong trở về Tháng tư bôi xóa lời thề Tháng tư hoãn loạn cận kề nỗi đau Tháng tư mình đã mất nhau Tháng tư trí nhớ in sâu chẳng mờ Tháng tư bóng phượng thôi mơ Tháng tư hụt hẫng thờ ơ cuộc đời Tháng tư nghẹn uất bao lời Tháng tư vận nước đổi dời điêu linh Tháng tư tướng lãnh hy sinh Tháng tư tự sát buông mình thiên thu Tháng tư lính phải tội tù Tháng tư hứng chịu đòn thù Bắc phương Tháng tư bỏ lại quê hương Tháng tư suối lệ không lường bể dâu Tháng tư nay lại u sầu Tháng tư tưởng nhớ canh thâu khóc cười Tháng tư tờ lịch ba mươi Tháng tư nghĩ mãi chuyện người ra đi Minh Thúy Thành Nội Tháng 4/30/2023 |
Phóng bút LÊ MAI LĨNH Cảm ơn tháng Tư, cảm ơn ngày 30/4/1975! Hẳn có người cho rằng tôi điên. Hẳn có người cho rằng tôi lập dị, ưa nói những điều khác với người khác. Không, tôi không điên. Nhưng nếu bảo tôi lập dị, thì có chút chút. Nhưng, xin hãy bình tĩnh, xem và nghe tôi nói. Rằng, không biết vì sao, làm sao, theo tôi, thì có thể có Thần-linh mách bảo. Chợt đến trong lòng tôi, đầu óc tôi, một luận điểm, mang tính tiên tri. Đó là : KHI TÊN CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN TIẾN VÀO SÀI GÒN, ĐÓ LÀ GIỜ BÁO HIỆU chủ nghĩa CS sụp đổ trên toàn thế giới! Cũng là lúc giữa trưa Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, ngồi bên góc hè lát gạch bông, khóc, như cha chết mẹ chết, khi nhìn thấy… MỘT CHẾ ĐỘ MAN RỢ THẮNG MỘT CHẾ ĐỘ VĂN MINH. Trong khi đó, nhà văn NGUYỄN QUANG LẬP, tung hô giữa Sài Gòn MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG TÔI. MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG TÔI! Cùng lúc đó, thời điểm đó, nhà thơ, nhà báo PHAN HUY, ngậm ngùi, rớt lệ! Đến Saigon, tưởng say men chiến thắng Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin Khi điêu ngoa, dối trá hiện nguyên hình Trước thành phố Tự do và Nhân bản Trên đường về, đất trời như sụp đổ Tôi thấy mình, tội lỗi với miền Nam Tôi thấy mình, hổ thẹn với lương tâm Tôi đã khóc, cho mình và đất nước Cũng nhà thơ này, PHAN HUY, trong một bài thơ khác. SAU KHI MIỀN BẮC “GIẢI PHÓNG” MIỀN NAM, ÔNG BẬT KHÓC GIỮA LÒNG SAIGON: CẢM TẠ MIỀN NAM Tác giả Phan Huy. Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói Với Miền Nam, miền đất nước điêu linh Một lời cảm ơn tha thiết chân tình Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật. Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất” Tôi đã vào một xứ sở thần tiên Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền Cơm áo no lành, con người hạnh phúc. Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục Mở mắt to nhìn nửa nước anh em Mà đảng bảo là bị lũ ngụy quyền Áp bức, đọa đày, đói ăn, khát uống. Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động Đất nước, con người, dân chủ tự do Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô Giận đảng, giận đoàn, bao năm phỉnh gạt. Sinh ra, lớn lên, sau bức màn sắt Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu” Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều Con người nói năng như là chim vẹt. Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh Đuốc soi đường chủ nghĩa Mác Lê nin Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản.” Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng Xã hội thụt lùi, người kéo thay trâu Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu Thân phận con người chẳng khác bèo dâu. Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh Biết được nhân quyền, tự do, dân chủ Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình. Cảm tạ Miền Nam soi đường chỉ lối Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên Chớ không phải Các Mác và Lê Nin ngoại tộc. Cảm tạ Miền nam mở lòng khai phóng Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu Mà trước đây tôi có biết gì đâu Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỉ Dù không thành công cũng đã thành nhân. Phan Huy Ngày sau dó, SƯƠNG BIÊN THÙY tôi đã làm bài thơ tặng nhà thơ PHAN HUY, tác giả bài thơ CẢM TẠ MIỀN NAM /////////////////////////////////////////////////////// Viết từ 5/4/2015 Cảm ơn bạn, đã cảm tạ miền Nam Từ nửa vòng trái đất, tôi thương yêu bạn nhiều lắm Tôi mừng bạn đã mở mắt, dẫu muộn còn hơn không Nhưng chuyện nước non, có bao giờ là chậm Chuyện lịch sử, không bao giờ tính tháng tính ngày Lời cảm tạ miền Nam, bao giờ cũng mới. Đã 40 năm, vì còn quá ít người, nói lời cảm tạ miền Nam Nên đất nước hôm nay còn tang thương như thế 40 năm qua, nếu có nhiều người, nói lời cảm tạ miền Nam Sự thể đất nước mình chắc đổi khác. Cảm tạ miền Nam, tung quả đấm vào mặt bạo quyền Cảm tạ miền Nam, tung xích xiềng đứng dậy, vùng lên Cảm tạ miền Nam, phá toang tù ngục, trên khắp mọi miền đất nước Cảm tạ miền Nam, kéo sập những tượng đài của lũ bán nước, tay sai Cảm tạ miền Nam, xuống đường hàng hàng lớp lớp Cảm tạ miền Nam, phải tham gia đấu tranh dành lại Tự Do, Dân Chủ, quyền làm người. Cảm tạ miền Nam, không chỉ là những lời cảm ơn suông Cảm tạ miền Nam, bằng những hành động cụ thể sáng ngời Hà Nội đã nổi giận, hãy góp vào sức nổi giận của Hà nội Công nhân xuống đường đình công biểu tình, cảm tạ miền Nam, là phải tuyến đầu xung phong. Cảm tạ miền Nam, là luôn luôn trong tư thế sẵn sàng nhập cuộc. Dân oan xuống đường, cảm tạ miền Nam, sẵn sàng tiếp tế bánh mì Thanh niên, sinh viên xuống đường, cảm tạ miền Nam, sẵn sàng nước uống Cảm tạ miền Nam thanh, thiếu nữ sẵn sàng những đóa hồng tặng bộ đội, công an Cho những nắm đấm, dùi cui nhẹ bớt đi trên mặt, thân người tranh đấu. Thay mặt cảm tạ miền Nan, tôi cảm tạ Hà Nội nổi giận làm nên Cách Mạng Xanh vào mùa xuân qua và những mùa xuân tới Hãy tới luôn nghe Hà Nội. Chế độ mới biết sợ, phải cho chúng sợ tới chết luôn. Thay mặt cảm tạ miền Nam, tôi cảm tạ 90.000 công nhân diễn tập xuống đường biểu tình Cuộc diễn tập bước đầu đã hoàn chỉnh Hãy chuẩn bị cho những lần chiến đấu sau. Hãy tới luôn nghe Sài Gòn, Bình Dương, An Giang. Bão đã nổi Lửa đã cháy Cuồng phong đã bắt đầu Nộ khí nhân dân đã cất tiếng thét Hỡi những bước chân xuống đường Hỡi những cánh tay đã sẵn sàng tung nắm đấm Tôi thay mặt người cảm tạ miền Nam, xin cảm tạ hồn thiêng sông núi Cảm tạ những hồn Việt Nam bất khuất. Sương Biên Thùy 5/4/2015 Không những chỉ một Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Lập, Phan Huy, mà ngay cả ca sĩ ÁI VÂN, con cưng của bác và Đảng, cũng ngậm ngùi rưng rưng nhỏ lệ, những ngày đầu vào Sài Gòn, lang thang phố xá, mua sắm những mặt hàng của chế độ tư bản giữa miền Nam thịnh vượng. Không những chỉ ngần ấy giọt nước mắt , mà là, đó là những giọt nước mắt của những trái tim nghệ sĩ nhạy cảm, đại điện cho những triệu người trước một Hòn Ngọc Viễn Đông tạm thời đổi chủ. Chỉ tạm thời thôi nghé, mọi người ơi! Lịch sử sẽ sang trang, tất yếu lịch sử sẽ sang trang, khi cái ác, dối trá, không bao giờ là vĩnh viễn. Chào tháng tư, chào ngày 30/4/1975 , là có lý do của nó, của những chu kỳ lịch sử. Tôi sẽ nói tiếp. Khi tôi nói, tên CS đầu tiên bước vào SAIGON, là tôi nói chung CS, có thể là Liên Xô, Hung, Tiệp Khắc , Ba Lan. Trung Cộng… Như thế cũng có nghĩa SỰ THẬT MIỀN NAM tự do, thịnh vượng, lan truyền tới Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, tới Đông Âu. Như thế cũng có nghĩa, phơi bày SỰ DỐI TRÁ, cũng vậy, lan tỏa tới nhân dân các nước đó. Sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu, không bắt nguồn từ SỰ THẬT miền Nam, đó sao. Nhưng Việt Nam sao chưa sụp đổ chế độ CS? Bắt nguồn từ hai nguyên nhân: 1/ Sự che chở, lệ thuộc vào Trung Cộng quá mạnh. 2/ Nhân dân VN chưa thoát ra nỗi sợ, sau 1.000 năm Tàu và 100 năm Pháp, nhất là 21 năm CS Hà nội và 58 năm CS cả nước. Thế nên, dù chế độ CS hiện nay là một căn nhà xiêu vẹo, mối mọt mục rã, nhưng chưa có bàn tay bão nổi của nhân dân, chưa có cơn nộ khí xung thiên của nhân dân tác động, nên nó vẫn còn trụ vững, cho tới bao giờ nhân dân ném nỗi sợ sau lưng và tiến lên phía trước, hàng hàng, lớp lớp. Đó là lúc chế độ CÁO CHUNG. Nhưng cuối cùng, nó cũng phải cáo chung. Sức mạnh của CS là sự DỐI TRÁ và BẠO LỰC. Hay nói cách khác , DỐI TRÁ và BẠO LỰC là CHIẾC ĐŨA THẦN của PHÙ THUỶ CS. Phù thủy mất chiếc đũa THẦN là trắng tay. Hay nói cách khác, DỐI TRÁ là DƯỠNG KHÍ nuôi người CS. Nhưng khi không còn DỐI TRÁ được, là mất nguồn DƯỠNG KHÍ, tất yếu phải tiêu vong. DỐI TRÁ và BẠO LỰC là cặp SONG SINH DÍNH LIỀN NHAU, là quái thai. Khi DỐI TRÁ không còn, thì bạo lực cũng không còn tác dụng, bị vô hiệu. Chế độ CS hiện nay, không còn chiếc ĐŨA THẦN, dối trá và bạo lực. BẠO LỰC chỉ có kết quả, khi người thi hành bạo lực không sợ MÁU và không bao giờ đặt ra những câu hỏi tại sao. GIẾT, giết cho ai, giết vì mục đích gì? Nhưng nay, người thi hành bạo lực đã biết đặt ra những câu hỏi tại sao giết, giết cho ai và biết sợ máu. Và phía nạn nhân của bạo lực, cũng đã không còn sợ chết. Khi nạn nhân của bạo lực không còn sợ chết, thì bạo lực đã mất giá trị của sự ngăn đe và bị mất hiệu nghiệm. Hình ảnh những người đàn bà lưng trần với hàng chữ HÃY GIẾT TÔI ĐI RỒI CƯỚP ĐẤT, CƯỚP NHÀ đã nói lên điều gì. Dấu hiệu sự sụp đổ của chế độ, khi DỐI TRÁ và BẠO LỰC không còn tồn tại. Trước năm 1975, khi sang thăm VN và thị sát chiến trường, tướng độc nhãn Do Thái, MOSHE DAYAN, đã đưa ra nhận định: “MUỐN THẮNG CỘNG SẢN HÃY CHO CS THẮNG.” Ngày 30/4/1975, cho CS thắng để nó tiêu vong Vĩnh viễn. Ngày nay, chúng ta đã thấy rõ điều đó, CỘNG SẢN SẼ TIÊU VONG VĨNH VIỄN. Ngày 30/4/1975, chẳng phải miền BẮC THẮNG, MIỀN NAM THUA, mà đó là thời điểm của những CHU KỲ LỊCH SỬ. CHU KỲ CỦA MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ của đất nước. CHU KỲ CỦA SỰ THỊNH SUY CHẾ ĐỘ CHU KỲ TỒN VONG CỦA MỘT ĐẢNG PHÁI chính trị. Ra đi, di tản, không phải chúng ta chạy trốn. Đó là một sắp xếp của thần linh, tiền nhân Một sự gởi gắm, để bảo toàn giống nòi. Thử hỏi, có dân tộc nào, đã có mặt, trên toàn thế giới. Thử hỏi, có dân tộc nào, nhiều thế hệ con cháu, được đi DU HỌC miễn phí như con cháu RỒNG TIÊN. Thử hỏi, có dân tộc nào, có được một tiềm năng CHẤT XÁM, cho một dựng xây nước nhà, vào thời HẬU CS? VIỆT NAM MUÔN NĂM! Hãy cảm ơn tháng Tư. Hãy cảm ơn ngày 30/4/1975. Hãy quên đi những ngày tháng của 48 năm xưa, ra đi là tạm thời, ngày về Vinh Quang là điều có thật. Hãy cười vui, lạc quan, về một tương lai VN, khi CS cáo chung, tất yếu phải cáo chung. Vấn đề của chúng ta bây giờ là ngồi lại, tay trong tay, lòng cùng lòng, cho một hồi hương, vạm vỡ, của những bàn tay xây dựng, của những trái tim hòa ái và những khối óc không hận thù. Đã rõ ràng, ai thắng ai. Đã rõ ràng, phía, phe nào, là chính nghĩa. Đã rõ ràng, 48 năm qua, lòng dân ngưỡng vọng ai, thương yêu ai và thù hận ai. Mùa Xuân nào ta về? Bây giờ, đã có câu trả lời. MÙA XUÂN TỚI, TA VỀ. Chắc nụi! Cảm ơn tháng Tư, cảm ơn ngày 30/4/1975, chỉ là giả định cho tựa đề bài viết. Dưới đây, mới là tựa đề chính xác cho bài viết, như một THÔNG ĐIỆP: CẢM ƠN THÁNG TƯ, CẢM ƠN NGÀY 30/4/1975, THỜI ĐIỂM KHỞI ĐẦU CHO CHIẾN THẮNG CHÓI LỌI CỦA DÂN TỘC VIỆT. LÊ MAI LĨNH Ba nhà, văn, thơ, báo. 82 niên 26/3/2023. Pittsburgh – USA. |
VƯỢT BIÊN Câu chuyện xẩy ra đã mấy chục năm – tưởng đã quên nhưng không sao quên được nên tôi đành viết ra giấy may ra chia xẻ đựợc những gì cứ thường hiện về trong tâm trí tôi khiến tôi rơi lệ . ***Vâng ! Hôm ấy là một buổi trưa ngày chủ nhật! Trời mưa cũng tạnh rồi chỉ còn lấm tấm ít hạt và gió se se …- Cổng khép hờ vì nhà còn gì đâu mà sợ trộm cắp . Hai con tôi còn nhỏ chúng không ngủ đang chơi “đánh gụ “. Chúng chơi rất khéo tay . Thằng lớn – tên Q- lại thua thằng nhỏ – tên Ph – chứ ! Lý do thằng lớn cháu sinh ra bị dùng máy hút – hút nên bị ảnh hưởng cái tay phải ( gọi là Late effected ).Thằng nhỏ thắng anh nó ba ván . Nó hét lên mừng qúa ! Khi con gụ bổ trúng đầu con gụ của anh nó đánh “Chát “. * Tôi đang cố gà gà ngủ …vì mệt mỏi qúa nên nằm nhắm mắt thôi chứ ngủ gì nổi !- Thì nghe hai đứa bỏ gụ reo lên : “ A Dì Huy và chú Đăng ! “” Mẹ ơi ! Dì Huy ! “. Tôi mở mắt ngồi dậy nhìn ra cổng : Hai vợ chồng Huy và con Bé “Bo Bo “ bế trên tay nữa ! Tôi ra cửa đón vào cũng mừng và lo vì : “ Không còn gì đãi …- Mấy củ khoai lang luộc ăn trưa hết rồi ! “. Bàn ghế cũng chẳng còn vì bán để đong gạo rồi .Chỉ còn hai cái bàn dài ghế dài đóng bằng gỗ thùng bia …để tôi dạy học trò kiếm thêm tiền chút đỉnh . Tôi chỉ ghế :” Mời hai em ngồi đỡ … bàn ghế cũ chị bán hết để đong gạo mất rồi ! “ . Con bé Bo Bo (tên nó đẹp nhưng kỷ niệm ăn bo bo hoài nên gọi vậy ! Nó bị bế trên tay từ nhà đi xe bus tới , nó mỏi nên nuỗi ra đòi lê xuống sàn nhà . Tôi lâu không gặp nên nó lạ cứ nhìn nhìn . Tôi hỏi :” Sao mưa gió thế này mà đến chơi . Cháu còn nhỏ phải cẩn thận kẻo cảm “. Em tôi – Huy cười cười … Cũng đi chơi hết mọi nhà chị ạ . Rồi nhìn quanh … Huy bảo : “ Nhà chị còn gạo ăn không ?! Em còn bắp say có xách theo để em đưa chị hết ! Tôi lại bảo: “ Cho chị hết lấy gì các em ăn ?! “. Huy nhìn Đăng cười cười …- Tôi lại nghĩ bên nhà bố ruột Đăng còn tiền , vàng để giành nên không ăn độn .Trước khi ra về Huy mới chịu nói thật :” Ngày mai tụi em đi vượt biên . Theo diện bán chính thức . Mỗi người 12 cây . Do bà vợ CHỦ TỊCH tỉnh Phú Quốc đứng ra Tổ Chức . Đi rất an toàn! Em ở lại cũng chết vì Khi Việt Cộng vào thì em đang có bàu . Khi sanh con : Việt Cộng chỉ cho nghỉ có 15 ngày còn phải đứng giúp mổ – nay chân em gần như bịt liệt do gai cột sống ! . Đấy chị thấy “ Xưởng Đẻ “ Từ Dũ bây giờ sanh đẻ không được nghỉ ăn lương đủ ba tháng như hồi VNCH đâu ! – Rồi … trong vòng ba ngày có tin từ ông Bố của Đăng- tên là cụ Hân – tới báo cho bố mẹ tôi : Chúng nó đi không có vàng chồng nhưng tôi là Chân Rết đi tìm người đi . Nay có một cặp vợ chồng đau nặng bỏ cuộc đợi chuyến khác nên tôi cho hai vợ chồng Đăng Huy đi thế chỗ . Có thêm một con bé còn bế trên tay thì họ đồng ý miễn . Nhưng khi ra đến Phú Quốc thì Mụ Vợ Chủ Tịch không chịu đòi nạp thêm 1 cây . Tôi chạy điên đảo mới vừa nạp xong . Tôi lên báo Ông Bà là tàu đã ra khơi ! Gần tới Bi Đông thi sẽ sang tàu khác vào Bi Đông “. Cả nhà tôi đều vui mừng khi nghe ông bố Đăng- cụ Hân báo tin . Nhưng bố mẹ tôi vẫn thương nhớ con xa …mà ngậm ngùi . Chờ tin tiếp … Không nhớ rõ mấy tuần sau …có tin về – Ông cụ Hân bố Đăng mang lên : “ Chúng con đã vào đảo Bi Đông . Hiện phải chờ giải quyết cho đi nước thứ ba ! “. – Họ hàng cũng nghe tin Huy đi vượt biên …được an an toàn . Chỗ làm , bạn thân của Huy – mấy cô Nữ Hộ Sinh bạn ở nhà thương T ừ Dũ cũng tới … nghe nói Huy đang cùng chồng con đang ở đảo Bi Đông . Họ đền thở phào vui vẻ chia xẻ với bố mẹ tôi . – Rồi …sau mấy tháng dài được tin từ Úc là vợ chồng Huy và con bé Bo Bo được cho định cư tại một tiểu bang Nam nước Úc . * Sau này gặp , cả nhà cả họ tôi ai cũng nghe chuyện kể từ Bi Đông mà Kinh hồn …. – Số là như thế này …. Khi vào được Bi đông rồi thì …” Đầu trọc “ nghĩa là mình không có người ở nước thứ ba nhận cho vào . Nên tụi Bi Đông rất bực cứ hối . Tin Lành cũng không , Thiên Chúa cũng không . Đó là Hai Đạo : Làm phước nhận cho vào Mỹ hoặc Úc . Mà Huy lại không ở hai đạo đó ! Thế là …một đêm đang nằm ngủ , Bi Đông cho người gọi dậy bảo : Dậy xuống Tàu cho đi nước Thứ Ba ! “. Mừng qúa hỏi nước nào ?!- Bọn này bảo : “ Cứ đi sẽ biết !”. Mấy chục người nghe theo . Bọn Bi Đông cấp cho mỗi người 4 lít nước- Thức ăn khô …- Rồi bảo xuống một con tàu . Thuyền trưởng là một người thủy thủ VNCH cũng trong số vượt biên . Khi tàu đi thì lạ sao có 2 cái cano của Bi Đông đi ép hai bên mũi tàu .Tụi Bi Đông bảo 2 cano dẫn đường – Sợ lạc !. Mọi người sao như có linh tính bị đánh lừa . Nên bảo nhau :” Đạo ai thì người đó đọc kinh theo đạo đó để cầu xin”. Đi được ít giờ đồng hồ thì … Anh Thuyền trưởng ngừng lại báo cho tất cả mọi ngưới là tàu chúng ta đang bị ép về Việt Nam . Vì hướng đi là tàu sẽ về Cà Mau ! Bây gìờ tôi muốn hỏi bà con muốn tàu Stop lại hay đi theo hai cano đang ép đây ?! Tất cả đều trả lời thuyền trưởng :” Stop lại chờ tàu nào đi qua thì cứu ! . Hai cano bực , chúng cứ cho đầu cacno húc vào hông tàu này !Tàu bị thủng lỗ , nước bỉển dò vào . Thuyền trưởng bèn bắn pháo hiệu cầu cứu một tàu ở xa !. Và bảo tất cả người khoẻ hãy múc nước đổ ra biển kẻo tàu chìm . Bão thì tự nhiên nổi lên rất nhanh đang ập tới ! * Con tàu từ xa đã nhìn thấy phát súng báo hiệu cầu cứu – kịp chạy tới c ứu . Nhưng họ bảo : “ Tàu chúng tôi nhỏ không chở hết để chúng tôi gọi một tàu bạn lớn cứu ! “ “ Tạm thời chúng tôi cho tàu chắn gió bão cho tàu các người kẻo sóng đánh chìm ! Đồng thời cứ tát nước ra ! “ – May phước ! Tàu cứu đã đến kịp – Nếu không chắc tàu này chìm vì những người tát nước mồ hôi đổ như tắm và kiệt sức rồi . * Vâng tàu lớn đếp kịp đó là tàu của nước Úc . Họ bắc thang dây để chuyển người leo lên tàu họ . Gió bão đang to …Leo lên phải đu thật chắc ! Kẻo rớt xuống biển . – Thế mà có sáu người vì vội vàng giành nhau đi trước mà rớt xuống biển !mất tích luôn Cả tàu đã được đưa vào Nam n ước Úc – tiểu bang Queen Ann . Hai vợ chồng em tôi nghĩ rằng nhờ tàu Úc vớt và các Sơ của Công Giáo giúp đỡ hết mình …từ chữa bệnh đến tìm việc làm … cho từ cây kim đến thực phẩm nên cả hai vợ chồng ĐăngHuy đã xin theo đạo Chúa . THƯ KHANH – Seattle-3/13/ 2023 ( Bút Ký tặng gia đình Em gái : Nguyễn Thị Huy cùng chồng là Đăng – con bé tên : Bo Bo …- nhân tháng Tư Đen đang về trong kýức khôn nguôi ) ****Truyện 2 ( thương kính về chị của chồng tôi : Chị HỒNG )“ĐI KINH TẾ MỚI “ Câu chuyện đau thương tôi xin kể bạn nghe nhé . Đố ai đọc xong mà không rơi lệ ! Tiêu đề tôi phải đánh trong ngoặc kép – Vì Sự Thực chuyện không phải đi Kinh Tế Mới như nhiều người đã bị Cộng Sản đuổi đi vùng rừng núi non để họ chiếm mất nhà tại sài Gòn . * Vâng chuyện như sau : Vào một buổi nọ tôi đi chợ Hoà Hưng thì gặp chị H cũng đi chợ Hoà Hưng . Chị bảo : mai chị với cháu Khánh đi Kinh Tế Mới rồi . Mợ ghé vào nhà chị , chị cho mấy thứ mà dùng . Tôi thật thà : “ Chị ơi , Cháu Khánh đi cải tạo về rồi – có đi cùng chị hay chỉ mình chị thôi ?! – Giá Hôm 28- 29 mà cháu từ Củ Chi về kịp thì cháu Hinh ( con rể chị phi công Trực Thăng ) đã đón trọn cả nhà ra tàu Mỹ đi sang Mỹ rồi . Chị Hồng : “ Cháu về không kkịp – Nên bây giờ em của anh Trinh từ Bắc vào bảo lãnh cháu được cải tạo về sớm ! Chị nói xong ngậm ngùi rưng rưng nước mắt rồi vội trấn an – nên cười gượng … * Tôi nửa nghi nửa tin nên nói chị : “ Nhà em thì chưa biết bao giờ về vì nhà em là sĩ Quan ngành chiến tranh chính trị Không Quân , chuyên môn đi thuyết trình ở các không đoàn . Cộng sản chúng đánh giá : tôi nhà em nặng hơn các phi công nhiều .Nay nhà em mới nhắn về là :1- “ Em lên nhà chị Hồng nói cháu Khánh cho xin đôi giày và 2 cái quần kaki dài – Vì Khánh về không cần nữa , còn anh chắc còn lâu mới về và phải đi rừng làm lao động nặng . 2- Em ráng nói làm sao cho anh Tuyên ( Phan Lạc Tuyên ) tin anh và bảo lãnh cho anh về sớm ! Không thì chắc anh bị chết trong tù qúa ! Tôi đã nói với chồng tôi là : “ Anh nhầm rồi : a- Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , Csản cho giải tán ngay trước khi Hội Nghị Paris rồi . **PHan Lạc Tuyên đảo chánh Ông Ngô Đình Diệm ( năm 1-11- 1961 cùng nhóm Nguyễn Chánh Thi… Nay Phan Lạc Tuyên còn lo thân chưa xong kìa . Không phải như trường hợp cháu Khánh . * Trở lại đoạn theo chị Hồng vào nhà chị : thấy cháu Khánh đang loay hoay sọan các thứ để “Đi kinh Tế mới “. – Tôi có nói về việc cái quần kaki và đôi giầy …- Nhưng Khánh trả lời : “ Trễ rồi : Cháu lại cho một người bạn xin mất rồi ! Tôi đành nén giòng nước mắt . Và nói chị Hồng : “ Vậy chị đi KINH TẾ Mới làm ăn phát tài thì chị nhắn cho em đi với nhé ! Chứ không thì chết đói hết chị ơi ! Nhất là nhà em về- họ cũng không cho ở thành phố đâu ! Chị Hồng cũng hơi xúc động trả lời “ Chị nhớ rồi ! “ – Rồi sáng hôm sau : Tin xét đánh mang tai . Bố chồng tôi báo tin : Tàu của Mẹ con chị Hồng và cháu Khánh đi bị lật chìm ở cửa sông Nhà Bè ! ‘ “ Cả tàu mọi người chết hết ! Vì tàu chở nặng qúa mà cửa sông nước xoáy nên tàu bị lật !” Ông cụ bố chồng tôi rủ tôi đi cùng để tìm xác !- Tay cụ cầm một cây sào đẻ bới xác Ba bốn ngày liền , không tìm được – Vì tàu khoá chật khi mở máy chạy ra cửa biển . -Chủ tàu là bà vợ Một chủ Tịch Phú Quốc – Tổ chức cho đi giá 12 cây vàng mỗi người . – Đành kéo tầu vào – mở cửa tàu ra = Hốt xác đưa về chôn Tập Thể ở cùng một hố tại Nghĩa Địa đô thành .Nghĩa địa này quay mặt ra cuối đường Lê văn duyệt gần Nhà Dây Thép Gió !( Gần khu Ông Tạ )- Khi đó Nghĩa địa chưa bị giải toả . Rõ ràng là : Bọn Cộng Sản vơ vét bằng đủ cách ! Mà chuyện xảy ra như thế chúng có bị tù tội gì đâu . Chị Hồng có mấy người con : Con trai+ Con dâu+ con gái+ con rể – (phi công trực thăng) – tên là Hinh ) đã đi kịp nên sang Mỹ an toàn , làm ăn gửi tiền về cho – Không ngờ có Tiền : “ Đi Kinh tế Mới “= mà như thế này ! Nay gần 30 tháng Tư đen – Nhớ lại chuyện đau thương – Xin kể lại để thấy Chuyện đau thương trong gia đình – sau ngày 30 tháng Tư Đen – 1975 !hầu như nhà nào cũng có , không ít thì nhiều – Ôi Miền Nam : Cũng như một Nén Nhang xin cho các Hương Linh mau đi Vãng Sanh. THƯ KHANH – Seattle- 3/ 13/ 2023 . |
NGÀY QUỐC HẬN Khi Cộng Sản mừng ngày chiến thắng Hoàn thành dã tâm Mặt trận xâm lăng miền nam để ngơ ngáo, váo vênh, tự đắc Nhờ ơn Nga Tàu đốc xúi, ép buộc Người dân tôi thảng thốt khóc tháng tư đen, ngày quốc hận Khổ đau chồng chất miền nam cùng miền bắc Xót xa, điêu tàn, mất mát Là ai hy sinh, chiến đấu cho ngoại bang Ai đem nồi da xáo thịt đồng bào Hảnh diện làm nô lệ, chư hầu Miền nam có bị đô hộ đâu mà diệt Ngụy cứu nước Người miền nam sống độc lập, tự do, no cơm, ấm áo Không gì quý hơn độc lập, tự do Thật Sự Là độc lập không chư hầu , lệ thuộc Cỏng rắn cắn gà nhà mà cho mà cho mình là chính trực Miền nam người Việt yêu quê hương, tổ quốc Theo gương tiền nhân quyết chống trả kẻ thù truyền kiếp Phải tự vệ quyết bảo bọc dân lành vì chánh đạo Tuyệt đối không cắt đất, dâng đảo Lạy lục, van xin kẻ thù kề cận luôn hiếp đáp Giết dân cả hai miền vì chút quyền thái thú đọc đảng cai trị, áp bức Hãy nhìn bảy mươi năm qua dân được giải phóng mà càng bị bắt bớ , tù ngục Thống nhất để càng khốn khó Trai lao động khắp xứ người Gái xả thân mọi nơi nước lạ Đất nước lần hồi bị người ta làm chủ cả Dân đói rách phải làm thuê, làm mướn cho mọi chủ nhân trên cả quê hương mình Đảng Nô Cộng trơ tráo mỵ dân Dân làm chủ mà đảng quản lý chủ. Xích xiềng, áp bức, xiết cổ, bóp họng Giết chẵng nương tay đồng bào ruột thịt Sao không biết gục đầu xấu hổ Thẹn với quê hương, nhục vong linh tiên tổ Cuối tháng tư đen phủ phục Sám hối ngày đại tang quốc nhục Chương Hà tháng 4- 2019 |
![]() Nơi Địa Ngục Loài Người Mấy ngày qua tôi dọn dẹp nhà cửa để đón cặp vợ chồng từ tiểu bang Connecticut qua. Chị tên Thanh Hương, thuộc khoá đàn chị của trường NTN mà tôi thường sinh hoạt họp mặt chung, anh tên Lê Phong đi du học Mỹ khóa một OCS (Officer Candidate School) vào năm 1970, là Sĩ Quan Liên Lạc Hải Yểm (Naval GunFire Liaison officer). Anh đã đi tù “cải tạo” từ năm 1975 tới 1985. Anh chị qua dự khoá hội ngộ “Gia Đình Hải Quân THĐ /OCS” tại nhà hàng Dynasty nằm trong khu Grand Century thuộc vùng Bắc Cali. Hai ngày nữa mới họp mặt, nên anh chị có thời gian chở tôi xuống Sacramento thăm bà hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Thành Nội xưa. Sáng nay dậy sớm, tôi dọn thức ăn sáng và pha cà phê. Mấy anh em ngồi ôn chuyện xưa ngoài vườn. Tiếng chim hót réo rắt vui tai, không khí yên bình của buổi sáng tạo cảm giác thảnh thơi cho những người lớn tuổi đã về hưu, hưởng nhiều bổng lộc của đất nước Mỹ này. Bắt đầu từ những câu chuyện trên trời dưới đất, đi quanh thời gian hiện tại và ngày xưa, từ từ dẫn đến giai đoạn miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản. Bỗng dưng nét mặt anh Phong trầm xuống. Anh kể khoảng thời gian bị đi tù, quãng đời mà anh nói luôn ám ảnh trong đầu óc, dù anh đã cố gắng quên. Chúng tôi hết đùa giỡn, lắng nghe câu chuyện một cách trân trọng của những mảnh đời khổ nhục lúc bị mất nước. Những người con từng hăng say chiến đấu, hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước, nhưng vận nước nổi trôi, và các anh phải chịu sống trong lao tù đày đọa. Giọng anh từ từ như đang sống lại … – Tui bị đưa đi “cải tạo” đầu tiên từ trại Thanh Hoá, rồi đến Nghệ An, Hà Tịnh, Lòng Hồ Sông Mực, cuối cùng về trại Ái Tử Bình Điền. Nói chung khi được mùa khoai bắp thì tiêu chuẩn mỗi tù nhân nhận hai trái bắp đủ hột, ăn không được no, mất mùa thì trái bắp không có hột, chỉ toàn là cùi bắp, tù nhân phải ăn hết cùi bắp mới giải quyết cơn đói hành hạ đến run tay run chân. Chị Hương nén tiếng thở dài, quay sang tôi: – Em thấy khổ chưa Anh tiếp tục: – Ngày nọ vệ binh ném lựu đạn bắt cá ở Lòng Hồ Sông Mực, cán bộ đã bắt hết những con cá lớn béo tốt. Buổi chiều sau một ngày lao động, tù nhân trở về sông tắm rửa, còn lại những con cá nhỏ, anh em tù bắt về dự trù tối nấu ăn. Nơi Lòng Hồ Sông Mực trời rất lạnh, nên hai đầu láng lúc nào cũng có hai nhóm lửa để sưởi ấm. Một anh tù tên T hí hửng, mừng rỡ công lao mình hốt được lon cá, vừa đem ra tìm cách hơ cho cá chín. Không may, bọn cán bộ đi ngang qua, họ túm anh này ra ngoài rừng bắt ăn lon cá sống. Anh T vừa ăn vừa ói mửa nôn thốc vì mùi tanh. Nhiều cán bộ bao vây đánh anh T liên tục, ép phải ăn cho hết. Suốt buổi anh T bị đánh nhừ người, tiếng ói như bò rống vang trong đêm khuya. Anh em bạn tù nằm nín thở không ai ngủ được, trăn trở nhìn ánh lửa bập bùng trong bóng tối, trí óc ngớ ngẩn tê liệt, miệng lưỡi đắng nghét, quai hàm cứng lại muốn á khẩu. Anh ngừng nói, hợp ngụm cà phê dường như đè nén nỗi cảm xúc đang dâng lên – Tui cũng vớt được nửa lon gô, đêm trắng mắt sợ hãi, ám ảnh âm thanh ói mửa của T, chỉ trông trời mau sáng để đem cá ra suối đổ đi, vì điều đơn giản là không muốn mình bị đánh và ăn cá sống như anh bạn. – Trời ơi Tôi rùng mình thốt lên. Anh lắc đầu nói tiếp: – Anh Nguyễn N trước là Đại uý Trinh Sát có dáng người cao ráo, nhanh nhẹn, đẹp trai và tánh tình rất vui vẻ. N được phân công làm đội trưởng ra vào nhà bếp nhận những việc lặt vặt. Nhà bếp để dành phần cơm cho cán bộ đi công tác, N đói quá ăn lén phần cán bộ nhiều lần. Cán bộ nghi ngờ giả đi công tác, rình rập theo dõi và N bị bắt quả tang, cán bộ đánh một trận nhừ tử gần chết. Cái đói hành hạ thời gian sau N thường bắt cóc nhái ăn, rồi bị chết và chôn tại Lòng Hồ Sông Mực. Im lặng một hồi như đang nguyện cầu cho người bạn xấu số, mọi người cũng im lặng theo, anh tiếp: – Cán bộ có lúc ăn tiệc, thức ăn dư thừa quăng đổ vào thùng nước gạo. Ngày hôm sau những người giữ công việc nuôi heo dùng nước gạo, vớt những thứ gì có thể ăn được đem về chia anh em tù, bị cán bộ biết được, họ cấm không cho đụng tới thùng nước gạo, chờ đến năm, sáu ngày sau thùng nước thối rữa mới cho lấy. Hàng ngày anh em vào rừng kiếm gỗ, có những khúc to nặng tới mét rưỡi, gắng sức cả chục người mới vác về nỗi, dùng cưa đóng bàn ghế cho cán bộ. Có những hôm đi sâu tới ba, bốn ngọn đồi. Anh em gặp bãi nấm vui mừng hái luộc ăn tại chỗ, ai dè bị trúng độc. Trong đoàn có bác sĩ H bị nặng nhất, đi không được anh em phải khiêng về. Nhấp tiếp cà phê, anh lại thong thả – Tụi tui đi Thanh Hoá chặt 10 hecta rừng ở Lòng Hồ Sông Mực để làm Thuỷ Điện. Giai đoạn đó tui bị bệnh thương hàn nặng được đưa về Ái Tử. Một hôm khoảng chín, mười người tù rủ nhau đi trốn, vừa ra cổng đã bị chận bắt. Tui được giao việc nuôi heo, mang thức ăn cho những người ngồi trong hộp (chuồng chó). Đi ngang qua ngôi nhà điều tra của cán bộ, thấy áo tù dính đầy máu rớt văng từng mảnh khắp nơi, chắc hẳn các bạn tù bị đánh đập kinh khủng lắm…. Tô cháo đã vơi, ly cà phê cũng cạn. Trời rực hồng tươi sáng, cây cỏ xanh um, mấy khóm hoa hồng vàng, đỏ, tím tươi màu còn đọng những giọt sương mai lấp lánh chưa chịu tan. Bầu trời xanh ngát, những cụm mây trắng tản mát trôi nhiều phương, tôi ngẩng mặt nhìn rồi thốt một câu lấy lệ “ngàn năm mây bay” để cố nuốt những giọt lệ chực trào ra, trái tim nén thở theo câu chuyện đau lòng tức tưởi. Tôi châm trà thêm vì anh vẫn nói say sưa như chưa bao giờ được nói. Hình như mắt anh lạc thần, không nhận diện những gì trước mắt mà chỉ thấy khoảng thời gian trong địa ngục tối tăm của tháng ngày tù đày. Nhiều tiếng phôn liên tục, anh Phong tạm ngưng câu chuyện để sửa soạn lên họp bạn, bàn bạc chuẩn bị cuộc gặp gỡ của “Gia Đình Hải Quân THĐ /OCS” ngày mai. Đêm hội ngộ khoảng hơn hai trăm người. Bạn bè gặp nhau tay xiết chặt mừng rỡ, bộ y phục trắng ngời của binh chủng Hải quân lúc làm lễ thật oai phong đẹp mắt. Tôi đang để dòng ký ức quay về năm tháng cũ thì anh Phong đến ngồi bên chúng tôi, nét mặt anh tư lự thoáng buồn – Họp mặt để gặp nhau mừng rỡ chuyện trò, vì mái tóc ai cũng đã điểm sương chiều, vượt tuổi thất thập cổ lai hy. Bao nhiêu bạn đã ra đi, mấy người còn ở lại?!! Nhớ thời tuổi trẻ giữ gìn non sông, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc, bảo vệ lá cờ vàng có chính nghĩa. Sự biến đổi tình hình quá lẹ làng, cái đau của thể xác nào so được nỗi đau của tinh thần luôn dày vò. Mặc lại bộ quân phục của Hải Quân như để giải tỏa niềm mơ ước cũng như nỗi uất ức phần nào, và cũng để ôn lại một thời của người lính Việt Nam Cộng Hoà với tinh thần bất khuất, sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tôi suy nghĩ miên man: những lớp người được đi du học Mỹ, được đào tạo huấn luyện kỹ càng về ngành thuỷ. Tinh thần họ anh dũng, chí làm trai can trường, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ miền Nam, đem sự an vui cho người dân sống trong ấm no, tự do và hạnh phúc. Biết bao người lính đã hy sinh xương máu với cuộc chiến do miền Bắc muốn xâm lấn, biết bao người lính vẫn kiên trì chiến đấu đến giờ phút cuối. Ôi thế sự bể dâu…Chỗ lạc hậu đòi giải phóng nơi tân tiến văn minh, chỗ nghèo đói đòi giải phóng nơi ấm no. Họ dùng miệng lưỡi khôn khéo để ngon ngọt với dân miền Nam, nhưng dân miền Nam vẫn luôn nhớ câu nói của tổng thống Thiệu “Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm.” Các hình ảnh đấu tố chôn sống cày đầu thật dã man tàn ác ở miền Bắc với chiến dịch cải cách ruộng đất. Chuyện điển hình là ông nội tôi có tên trong danh sách, gia đình phải trốn thoát chạy đêm từ làng quê lên Hà Nội để xuống Hải Phòng di cư vào Nam. Ký kết ngừng bắn, để dân được sống yên bình nhưng tuổi thơ của tôi luôn nghe bên tai tiếng pháo kích, luôn xem cảnh nhà sập, trường học sập, trẻ em người lớn chết thảm thương diễn ra hằng ngày. Bằng chứng rõ rệt nhất là Tết Mậu Thân không thể che giấu được tội ác của họ. Miền Nam đào tạo các binh chủng lính là để tự vệ, quan tâm bảo vệ tới đời sống thanh bình của người dân chứ chẳng xâm lấn miền Bắc, chỉ có họ ký kết ngưng bắn nhưng lại phá hủy, xé ngay bản hoà đàm Paris. Tháng tư năm 1975 họ chiến thắng miền Nam, cho tôi mở lớn mắt nhìn cảnh tượng người dân Quảng Trị vừa nghe rục rịch tình hình chiến sự đã khủng hoảng cắm đầu chạy trên Đại Lộ Kinh Hoàng để vào Huế, đã diễn ra biết bao cảnh chết chóc điêu tàn. Huế lại đua nhau chạy vào Đà Nẵng. Tại sao lại có cảnh cha gánh mẹ già, vợ vác con dại…Từng đoàn người lầm lũi đi bộ trên đèo Hải Vân, dùng tất cả sức mòn hơi cạn miệt mài đi như chạy trốn ma quỷ đang ám sau lưng, tiến nhanh về phía có ánh mặt trời. Tháng tư năm 1975 một bầu trời tang thương, mây đen u ám chụp xuống cuộc sống dân miền Nam. Nhà sĩ quan bị tịch thu, dân bị ép đi kinh tế mới, con “ngụy” không được học. Vợ sĩ quan lăn lóc giữa chốn bụi trần, dãi nắng dầm mưa kiếm cơm gạo nuôi con, và chắt chiu từng đồng dành dụm đi thăm chồng… Đổi tiền, khám xét tư gia thành phần buôn bán, ăn cướp trắng trợn tài sản mồ hôi nước mắt của dân…Đây rất rõ ràng chuyện của ba tôi, ông là trưởng cuộc Cảnh Sát, sau một năm đi học tập, ông không được ở thành phố. Muốn yên thân ba tôi kéo cả gia đình lên kinh tế mới vùng Sông Dầu thuộc tỉnh Phan Rang sinh sống. Với sáng kiến và sự lanh lẹ tháo vát, ông mở ngay lò đúc gạch, con cái sắm bò vào rừng kéo gỗ. Tình trạng khả quan ba tôi tuyển hết dân trên vùng kinh tế mới vào làm lò gạch, phát lương và xuất tiền trả bệnh viện lúc công nhân ốm đau. Dần dần ông đệ đơn xin huyện xã cấp gạo theo tiêu chuẩn công nhân được hưởng quyền lợi lãnh phần mỗi tháng. Công việc càng ngày càng phát triển, các bệnh viện, trường học, cơ quan lên ký hợp đồng mua gạch rất đông khách hàng. Chỉ một khoảng thời gian ngắn khấm khá, cấp lãnh đạo gởi giấy “mượn” lò gạch, mượn trâu bò và xe kéo. Ba tôi biết trước tình hình, còn chút của cải là hai chiếc xe đạp và máy hát, sáng sớm hôm sau cha con tôi đạp về vùng kinh tế mới khác gởi nhà ông chú. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh hai cha con đạp xe từ 5 giờ sáng tới 2 giờ chiều dưới trời nắng gắt, chỉ nghỉ ăn cơm trưa nơi cửa hàng dịch vụ ăn uống tại thành phố Phan Rang. Ba tôi thở dài nói với các con “Một chế độ lạ lùng bất nhân, mình nghèo thì họ đạp cho chết luôn, mình khá một tý thì họ đi ăn cướp ngang nhiên …chưa thấy chế độ nào như chế độ này.” Khi họ vào chiếm Đà Nẵng, mẹ tôi sợ hãi tột cùng, mặt tái xanh gọi tôi lại, đưa tiền và mếu máo nói “con thích ăn gì thì cứ ăn, xong tới tiệm thuốc Tây mua mấy chai thuốc diệt rầy bọ về, mấy mẹ con mình cùng uống, chứ mẹ đã từng sống với họ rồi, sống không nổi đâu con ơi”. Tôi sững sờ nhưng quay lưng bỏ đi tránh nhìn nét mặt đau khổ tột cùng của người mẹ đã chạy trốn năm 1954 di cư vào Nam. Cảnh vượt biên tiếp diễn, chồng vợ xa nhau, tình yêu tan rã, gia đình ly tan, mạnh ai nấy đi tìm sự sống, tìm sự tự do trong nguy hiểm, sống chết liều mình giữa biển khơi, đàn bà con gái gặp hải tặc. Chẳng kể đâu xa, gia đình nhà chồng tôi có em gái bị mất tích, cháu gái biền biệt không nghe tin tức, bà con chồng bị hải tặc giết quăng xác giữa biển khơi. Muốn hiểu thêm nữa thì có hàng vạn chuyện thương tâm kể sẽ không hết. Thông cảm niềm đau chung của đất nước và nỗi buồn khôn tả của các anh. Nhớ lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam “làm tướng mà không giữ được thành thì sống làm chi nữa”, cùng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ cũng như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn văn Long, và còn nhiều nhân vật khác nữa đã tuẫn tiết. Những người lính thầm lặng bỏ xác, còn các anh thì bị đày đọa chốn rừng sâu nước độc, chỗ tăm tối mà loài người cứ ngỡ chỉ có ở chín tầng địa ngục trong các bộ kinh Phật Giáo thường đọc, nhưng sự thật đã hiển hiện ngay nơi cõi trần gian này. Ngày cuối cùng anh chị còn lên San Jose dùng bữa cơm thân mật với số bạn bè định cư vùng này trước khi trở về. Chia tay chúng tôi, anh chị than nhẹ – Đi chơi vẫn không yên, bà con kêu réo giúp việc này, lo việc kia dồn dập Tôi cười – Tại có tài thì phải mang nợ Quả thực trong thời gian ở lại nhà tôi, anh chị đã bận rộn liên tục trả lời phôn. Tôi được biết bước đầu lúc đặt chân đến Mỹ, định cư nơi tiểu bang Connecticut, anh làm việc tại cơ quan International Rescue Committee (IRC), giúp đỡ người tỵ nạn thế giới. Lo vấn đề foodstamp, trợ cấp, welfare, tìm xe, hướng dẫn đường xe bus, kiếm việc, làm SS, ID. Lúc tuổi về hưu cho đến hiện nay anh nhận thông dịch mọi việc toà án, bệnh viện, di trú, quốc tịch. Hai người thay phiên nhau đi đón phi trường hoặc làm tài xế những việc khẩn cấp. Anh chị là người sống có tình có nghĩa, đầy ắp lòng nhân hậu nên tùy trường hợp mà tính giá tượng trưng hoặc giúp đỡ không công. Tiễn anh chị ra xe, anh tuy đã gần bát thập nhưng nhìn còn khỏe mạnh, hai người thường lái xe xuyên bang thăm bạn bè. Con cái trưởng thành lập gia đình ra riêng, chỉ còn đôi vợ chồng già tìm niềm vui nơi các sinh hoạt cộng đồng, nơi hội Cao Niên, và họp bạn năm xưa. Những câu chuyện anh kể, hãi hùng và man rợ đã lấy những giọt nước mắt của tôi không ít. Giờ đây các anh còn chỗ dung thân nơi đất khách quê người, tuổi già lực bất tòng tâm, nhưng vẫn còn an ủi được nhìn thấy lá cờ vàng thân yêu. Tôi luôn kính ngưỡng những người lính Việt Nam Cộng Hoà, những người bị tù tội một thời tưởng như từ cõi địa ngục được sống sót trở về. Tháng Tư Bừng Ký Ức Mỗi tháng tư về gợi nhớ thay Miền Nam điêu đứng lệ vơi đầy Đua nhau chạy giặc tìm phương thoát Giặc Cọng xông tràn quyết chiếm vây Lầm lũi đoàn người bước thật nhanh Hải Vân cuốc bộ vẫn cam đành Tay bồng, tay ẵm kiên trì sức Gắng gượng trèo đèo phút tử sanh Các tướng can trường chẳng sợ chi Niềm đau “mất nước sống làm gì“ Xem thường sự chết tìm đường tử Lịch sử trang hùng sẽ khắc ghi Người lính phế binh quá thảm thương Thân đang điều trị chuyện khôn lường Lết rời bệnh viện đời tăm tối Cuộc sống không tìm ánh thái dương “Cải tạo” chồng đi biệt mút mùa Rừng thiêng nước độc bị giam lùa Khổ sai, lao động thân mòn mỏi Nước mắt chan hoà cúi phận thua Vợ lết bên lề nét xác xơ Kiếm tiền nuôi nhọc đám con thơ Chắt chiu gom góp thăm tù tội Đợi mãi mù tăm dõi bóng chờ Những kẻ yêu rồi cũng hết duyên Chia tay vượt biển trốn chui thuyền Tương lai tự cứu liều giông bão Ánh sáng Tự Do quyết đến miền Mỗi tháng tư về dạ chứa chan Lưu vong gìn giữ lá cờ vàng Bây giờ dẫu điểm sương đầu bạc Bốn tám năm còn nỗi hận mang Minh Thúy Thành Nội Tháng Tư / 2023 |
AI ÁC HƠN VỚI TB. VNCH. Tháng Tư chiếm viện*đuổi thương binh. Nặng nhẹ cụt, đui, máu phủ mình, Lê lếch nương nhau rời khỏi viện, Đớn đau gục chết, nghĩ thù kinh. Cộng sao quá ác, không nhân tính, Man thú rừng hoang mãi nhớ khinh. Nhưng thật suy ra còn hiểu được. Giết nhau vừa đó, chẳng nhân tình. Nước mất cùng phe, kẻ rủi, may: Người đi thoát nạn được no say, Được dân khác giống thương yêu giúp. Thương phế quê nhà lắm đắng cay. Cầu cứu thư qua, lờ chẳng đoái. Dã man ích kỷ quá lang** loài. Sánh ra còn ác hơn quân Cộng. Bội bạc cùng phe, phải nhắc hoài. ĐỒ QUẢNG (Apr 23) *Viện: Quân Y Viện (Military Hospital) **Lang= Chó sói= cayote, wolf, loup. |