Tác Phẩm Văn Thơ 30 tháng 4

Các tác phẩm Văn Xuôi:
1. Sinh Vi Tướng, Tử vi thần- Nguyễn Lý Tưởng
2. Sau Những Hư Hao- Ngân Hà
3. MỘT NÉN NHANG CHO QUÁ KHỨ- Thu Tuyết
4. THÁNG BA VÀ ĐOÀN NGUỜI DI TẢN- Thu Tuyết
̀5. Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng trả lời các câu hỏi của Mai Ly Do về ngày 30/4/1975
̉6. Vượt qua cơn ác mộng- Ngọc Cường
7. MẤT TÍCH-Nguyễn Thị Thanh Dương
8.48 NĂM NHÌN LẠI …Lê Mộng Hoàng
9. SÓNG GIÓ TRÙNG DƯƠNG-Nhật Quang Phi Hồ
10.THÁNG TƯ KỂ CHUYỆN BÀ GIÀ -Kim Loan
11.Tưởng Niệm 48 năm Quốc Hận 30 tháng tư đen tại Vùng Hoa Thịnh Đốn -Đào Hiếu Thảo
CHÀO THÁNG TƯ!
Tháng tư buồn như một vuông lụa trắng
Phủ mặt anh , vầng nguyệt tối ba mươi
Tháng tư đầy , ôi một ly rượu đắng
Rót tràn khơi , từ độ vắng môi cười
Tháng tư thở, xung quanh mùi thuốc súng
Xích chiến xa nghiền nát phận dân mình
Tháng tư chín , cây sầu muôn trái rụng
Thịt da vàng dường nợ lửa đao binh
Tháng tư đỏ, đâu cần chùm phượng vỹ
Màu cờ sao vấy huyết lệ đôi miền
Tháng tư xám , oán hờn vươn bất trị
Tháng tư đen, sầu hận nối vô biên
Tháng tư khóc, lệ tràn xanh bốn biển
Nắng xôn xao mù động đến vô cùng
Tháng tư thắp trên môi lời quỷ biện
Giải phóng ! hề…
Nam Việt nấc lâm chung
Tháng tư bước ly hương ngày chuyển dạ
Đại dương sâu , mộ nước mẹ con vùi
Tháng tư gọi tên nhau trời xứ lạ
Chia tay rồi sao mặt cứ quay lui
Tháng tư vẫy , tự dưng sao buồn thế
Đáo hạn kỳ nhật nguyệt cứ luân phiên
Tháng tư dựng vách sầu cao ngạo nghễ
Cúi mặt nhìn vọng cố quốc lưu niên
Tháng tư gửi anh em sầu xa xứ
Tháng tư về trăm họ giỗ thanh minh
Tháng tư ngước hỏi thầm chừng thiên sứ
Đến bao giờ dân Việt hết điêu linh ?
Houston ngày đầu tháng tư năm 2019
Đặng Toản/BTT
Dụ ngôn tháng tư
Tháng tư về rồi đó .
Nhú hàm , chân răng khôn .
Ngựa non rừng một xó .
Lệ lăn thành dụ ngôn .
Tháng tư ngày ly tan.
AK và dép lốp .
Dòng lệ buồn rơi khan .
Cờ đỏ sao vàng ngộp .
Hoa niên cánh rụng tàn .
Cha thành tên tội phạm .
Mẹ đêm nằm ho khan .
Đếm ngày vơi cõi tạm
Ta đốt buồn trên sân .
Nhìn vầng trăng ảm đạm .
Ôn cố rồi tri tân .
Trong hoàng hôn lịm xám .
Sáng ra vác cây cuốc .
Vào rẫy chào cây rừng .
Ngước đầu nhìn khói thuốc .
Lệ cứ trào rưng rưng .
Tháng tư lòng hoang phế .
Tháng tư đời thiên tai .
Xuân này bòn xuân kế .
Đêm nay vùi đêm mai .
Xuân rồi hoa chẳng nở .
Dòng suối vắng chân quỳ .
Cha cúi đầu trả nợ .
Quê hương buồn như ri .
Tháng tư buồn không nói .
Tháng tư trầy đôi vai .
Bóng nào bên truông mỏi .
Vẫy tay chào giêng hai .
Lệ rơi tràn luống chữ .
Dụ ngôn thầm bên tai .
Lệ lăn vào quá khứ .
Dụ ngôn vờn tương lai .
Tháng tư buồn xâm thực
Tháng tư sầu kinh niên
Đá gầm lăn xuống vực
Lệ chảy vào vô biên
Tháng tư tờ lịch bóc .
Dòng lệ nhòa con ngươi
Xin một lần được khóc
Cho trọn ngày ba mươi !
Kinh tế mới Gia Lành , Di Linh
30/4/1984
Bài thơ cũ nhớ lại
Đặng Toản
Buồn chi lạ tháng tư! (*)
Anh đang ước một ngày mưa tháng sáu
Rửa tan trên phần mộ tháng tư gầy
Chư thiên xuống trao đời cây viết báu
Chép hịch truyền , an trăm họ đông tây
Anh vốn biết quê hương mình nhược tiểu
Chú vịt con trước một lão ngan cuồng
Như gà trống núp dưới chân đà điểu
Nên ngàn năm dân tộc ngậm hờn suông
Thế kỷ trước vương xích xiềng viên mãn
Dân Nam mình máu lệ buổi cơm chan
Thời quá độ dài lê thê hung hãn
Cú hồi thương tư bản độc vô vàn
Anh chẳng thích nghe theo lời phủ dụ
Rằng quê hương đang sắp sửa hóa rồng
Trăng liềm đỏ nhìn sao vàng quá đủ
Bày thêm chi vòng số tám mênh mông
Anh không dám ngước nhìn quê trẩy hôi
Lòng buồn như trẻ nít chịu tang cha
Xin cúi xuống nhìn miền Nam hấp hối
Tháng tư về , nỗi nhớ lại đi qua
Anh sợ hãi một chiều thu lá nám
Cố cung buồn , vương đế cũng lao lung
Con mắt bão băng qua trời nắng xám
Bao anh tài đất nước rụng như sung
Anh đâu dám viết bài thơ chém gió
Buổi dịch tràn nhân loại khổ đau chung
Bước lầm lẫn đầu tiên hang khốn khó
Để muôn đời huynh đệ chẳng tương dung
Richmond 21/4/2020
Đặng Toản
Tháng tư ngồi nhớ Sài Gòn
Cha , anh làm… “ lính đánh thuê “
Tháng tư ngồi gục nhớ quê quá chừng
Huyết áp tăng , mặt đỏ bừng
Bậm môi nói lắp , ngập ngừng hiên sau
Tháng tư Sài Gòn mưa mau
Dây trầu chưa héo , mùa cau cũng tàn
Nhớ quê ngồi nhớ quê khan
Rót dăm ly rượu mà chan nỗi buồn
Nỗi buồn đâu dễ rập khuôn
Càng xa xứ tợn , càng luồn thấm sâu
Tấc lòng không dễ vá khâu
Cà phê , ghế xúp mài lâu túi quần
Anh không thể vớt mùa xuân
Đọng trên tuyết , dấu chân tuần lộc mon
Cũng như không cách chi còn
Rạng đông mọc giữa Sài Gòn tháng tư
Tháng tư buồn cọng vui trừ
Tháng tư máu lệ thiên thư chép giùm
Tháng tư cỏ mộ xanh um
Tháng tư oan khuất bao trùm nhân gian
…tụng kinh Bát Nhã cầu an
Sài Gòn ơi , nhớ ngập tràn tháng tư !
Houston 4/2021
Đặng Toản/BTT
DỖ DÀNH THÁNG TƯ
Dỗ mình trong suốt tháng tư
Vòng lăn ký ức thặng dư mỏi mòn
Tháng tư ngồi nhớ Sài Gòn
Đại dương xanh, trái đất tròn vẫn quay
Tháng tư ngồi nhớ loay hoay
Nắng vừa bên tốn đã xoay sang đoài
Tháng tư ngồi nhớ trong, ngoài
Bao nhiêu số phận lạc loài cầm canh
Miền Nam xuống dốc không phanh
Áo tù cha bận, long lanh mắt gầy
Tháng tư tủi hận tràn đầy
Quê hương ngày ấy, máu lầy lội xuân
Anh về qua nẻo gian truân
Lề đường em bán bộ quân phục thừa
Rẫy chiều ngồi nhớ chợ trưa
Tháng tư xơ mướp, vỏ dừa quyên sinh
Thuốc rê quấn giấy nhật trình
Hút cho chữ thấm vô mình bớt ngu
Tháng tư ngồi nhớ thu lu
Cùng ta cả triệu sĩ phu trăm miền
Tháng tư ngồi nhớ đảo điên
Vỉa hè mẹ bám, lòng kiên-định ngồi
Tháng tư vừa nhớ một hồi
Bỗng dưng dòng lệ hoen bồi mắt khô
A men rồi lại nam mô
Hồn oan tử sĩ đội mồ xung phong
Gõ hồng chung một tiếng bong
Dường như nhịp mõ phải lòng câu kinh
Tháng tư thập tử, nhất sinh
Sài Gòn hấp hối, Ba Đình hội vui
Nhạc vàng qua phải hát chui
Guitar ngạch cửa, bùi ngùi bậu canh
Tháng tư đỏ lấn vàng, xanh
Cúi đầu mặc niệm, dỗ dành tháng tư
Houston cuối tháng 3/ 2022
Đặng Toản
Lính Đánh thuê
1-
Bên thắng cuộc của anh
các vị tướng lãnh
Kể cả những vị cao cấp nhất , đa phần đều
Học quân sự tại trường sĩ quan cao cấp Hoàng Phố
ăn lương khô Trung Quốc
Đi xe đạp Phượng Hoàng
Vượt Trường Sơn bằng Gin ba cầu và Molotova
Chở theo chiến xa T54
Từ núi xuống đồng bằng
Tràn vào thành phố
Các anh bắn chúng tôi bằng AK-47
B-40 , B-41 pháo 122 ly và 130ly
Cha anh tôi cầm Carbin M2 và M-16 , AR – 15 , M-72
Chống cự lại để sống còn
Lớp lớp người đã gục ngã
vô danh
Các anh thắng ,
trương cờ búa liềm
Treo hình Lê Nin – Các Mác
Nêu cao chủ nghĩa Cộng Sản
Trong khi miền Nam chẳng thấy treo
hình một vị tổng thống Mỹ nào trong phòng họp
Vậy mà các anh …
Nỡ…
Nói cha anh tôi là…
Lính đánh thuê !
2-
Hai mươi năm sau
Đế Quốc Mỹ từng là tên sen đầm quốc tế
làm hòa nối lại bang giao
Với Cộng Hòa Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam
Cha anh tôi và rất nhiều người bạn tù
ra ngoài công viên ngồi khóc
Đến bây giờ các vị ấy tuổi đã hơn 70 đến 90
Chưa một lần lợi dụng đồng đô la’
Về thăm quê
Mạo danh trong cái lốt Việt kiều yêu nước
Để thăm họ hàng và…tiện thể
Lén lút vào khách sạn với mấy cô bồ nhí
Vậy mà bây giờ
Hàng ngàn đảng viên cao cấp
Đưa con qua du học Mỹ
Mua cả ngàn căn nhà ở California
Những người lính Việt Nam Cọng Hòa xưa kia
Đến bây giờ họ chưa bao giờ làm hòa với các anh
Rất nhiều người trong số họ chưa từng về lại VN
Dù chỉ một lần
Vậy mà ông chủ Mỹ của họ đã
Ít nhất ba đời tổng thống đã qua thăm chính thức Việt Nam
Vậy là sao?
Các anh nghĩ kỹ lại đi
Lẽ nào lính đánh thuê
Chủ bảo không nghe ?
3-
Hôm qua tôi nói điều này
Trong bữa cơm họp mặt cuối tuần đại gia đình
Cha tôi bảo
Mình thua rồi con
Họ thắng , muốn nói gì thì nói
Bởi vậy nên bây giờ , họ bị ông anh lớn là Trung Cộng ăn hiếp
Cũng phải cúi đầu chịu nhục
Chẳng dám nói gì
Mạnh được yếu thua là lẽ thường của quả địa cầu này
Con lên rừng mà xem , con cọp nó ăn con nai con thỏ
Con xuống biển mà xem
Con cá to nuốt trộng con cá nhỏ
Khi chúng ta sống với một điều gì
gần với nhân văn
Là phải hiểu ta đem điều ấy
Từ hành tinh khác xuống
Nghĩ cho cùng VNCH đã chết
Nhưng cái chết này giúp chặn đứng
Sự lan tràn mạnh mẽ của khối CS
sang hết vùng Đông Nam Á
Mà Thái Lan là nước may mắn nhất
Nếu VNCH thua sớm vài năm
Không phải Thái Lan mà Miến Điện
Và Ấn Độ đều lâm nguy
Giá trị của nút chặn VNCH là ở chỗ này
VNCH tan xác nhưng không uổng phí
Người Cộng sản dựa vào sức mạnh
Đánh chiếm miền Nam , giết hại anh em
Chỉ vì người anh em đó không tôn thờ
Lê Nin – Các Mác – Mao Trạch Đông
Bây giờ họ mới bắt đầu thấm đòn
Nhân quả
Chỉ tội nghiệp vô cùng
những người dân lương thiện
Của quê hương VN mình
4- 2023
Đặng Toản/BTT
Thơ Tháng Tư Về

Nắng tháng tư xuyên qua từng kẽ lá

Mong manh chiều ký ức vẫn chưa quên

Em thẫn thờ ướt thêm viền mắt đỏ

Lạc mất nhau lòng buồn mãi trong đêm.

Tường hoa giấy đỏ pha thêm sắc tím

Hoa loa kèn sắc trắng nở ngôi sao

Cho nỗi nhớ phiêu du cùng ngọn gió

Tiếng chiều rơi xen  kẽ tiếng lao xao.

Một nỗi buồn vừa chui qua cửa sổ

Tháng tư về nhắc nhở chuyện năm xưa

Tái tim bé nhỏ chứa đầy nỗi nhớ

Hồn quê hương nức nở khóc như mưa.

Tế Luân
Tháng tư lại về


Buồn Tháng Tư

Tháng tư buồn muốn khóc

Góp mảnh vụn thời gian

Thái bình dương mây trắng

Hồn quê buồn thênh thang.

Buồn nào của tháng tư?

Sài Gòn em đi qua

Chén ly bôi uống cạn

Lời chia ly xót xa.

Đêm trong đêm mộng mị

Tìm hương cũ xiêm y

Cuốn hồn về cố xứ

Tháng tư buồn chia ly.

Nghìn trùng nơi đất lạ

Hồn quê cũ u hoài

Thương em tình ngây dại

Bước phiêu du lạc loài.

Nén nhang màu hương khói

Khăn tang trắng tháng tư

Xa xưa tràn nỗi nhớ

Sái Gòn khóc trong mưa.

Tế Luân
Tháng tư buồn
Xin mời nghe hai ca khúc thật buồn cho tháng tư.
Giọt Lê Khóc Cho Quê hương
https://www.youtube.com/watch?v=0WNULq8-d-M
Vết Loang Đoạ Đầy
https://www.youtube.com/watch?v=xT-Ybje2U3s
NHỚ  SÀI-GÒN 
                        Đình Duy Phương 
Tiếng ai than thở nhớ Sài-Gòn
Thổn thức lòng tôi, ôi héo hon 
Phố cũ người xưa dường đã mất 
Sài-Gòn ẩn hiện bóng vàng son.


Saigon tôi, dáng hình mơ mộng 
Đẹp não nùng, hòn ngọc Viễn-Đông
Bão táp phong ba bao thế hệ 
Qua lần mài dũa ngọc càng trong .


Tôi vẫn nhớ sân rường phượng vĩ
Hè về hoa phượng đỏ đường đi. 
Ngôi nhà Thờ kiến trúc uy nghi
Chùa lợp mái cong cong tuyệt mỹ.


Catinat, đường Tự Do phơi phới 
Khách nước ngoài thăm viếng tới lui
Khu Chợ Bến Thành bốn cửa lớn
Đông Tây Nam Bắc gặp nhau cười .


Đường Nguyễn Huệ hoa xuân rực rỡ
Mai vàng Thủ Đức rợp trời thơ 
Trái cây dưới tỉnh về nườm nượp 
Nhớ lại ngày Xuân, tưởng giấc mơ .


Người tượng đá rơi dòng lệ nóng !
Nhớ Sài-Gòn nhớ cả non sông 
Sóng trùng duơng nổi dậy trong lòng
Sài-Gòn hỡi Em còn đó không ?


Đình Duy Phương 
California 2004
BẦU TRỜI THÁNG TƯ
Tôi đã thấy một khung trời ảm đạm
Xám xịt, tối tâm
Thời gian ngưng đọng và tương lai đứng yên
Lời cầu nguyện tắt lịm , vô vọng
Những chiến hữu tử thủ đã nằm xuống
Tiếng súng đã im hơi, uất nghẹn
Nước mắt tôi cũng đọng lại không còn chảy xuống
Ôi dân tôi,đồng bào tôi đi vào khổ nạn
Những kẻ xâm lăng đã thắng
Nhờ cỏng rắn cắn gà nhà
Nồi da xáo thịt Cơ hội đánh giặc mướn
Khí giới nợ vay mượn Nga Tàu chồng chất
Chỉ cố giết nhau để giành thêm đất, mà dâng cho giặc
Họ đánh giặc mướn, mà nói là để thống nhứt
Tròng cổ dân trong mọi lệ thuộc
Đâu chỉ họ cố làm nô lệ, tự mình trói buộc
Người dân Nam bị giải phóng có vui mừng đâu
Được thống nhứt họ đều hiểu bị tròng cổ ách Nga Tàu
Chỉ những kẻ cuồng tín khát máu đồng bào Không thể hiểu
Kìa họ trơ tráo giành giựt cướp chiến lợi phẩm
Đồng hồ ,tv, máy giặt, tủ lạnh…
Vội vơ vét cho nhanh chở về miền bắc
Đảng giữ hết dùm cho dân Nam an lòng
Sẫn sàng làm kẻ chiến bại Đi vùng kinh tế mới
Khi lính ngụy sẽ vô tù cải tạo chết dần, mòn mõi
Chương Hà
TRÁI TIM VIỆT NAM
Đồng bào ơi
Khi nói tiếng dân tôi
Câu đồng dao, giọng hò miệt ruộng
Bài ví dậm, vọng cổ cải lương
Ăn cơm gạo tẻ, xôi phồng
Mắm đồng, thịt đông
Chia sẻ nhau đời sống
Đầy phong cách truyền thống
Thì mình cùng là người Việt Nam
Giòng giống rồng tiên
Hơn bốn ngàn năm văn hiến
Cùng bảo tồn gìn giữ quê hương
từng tấc đất thân yêu, quý mến
Đấu tranh để sinh tồn
Quật khởi khi tà quyền hiếp đáp
Đoàn kết, quyết vì tự do độc lập
Hy sinh xương máu cho quê hương gấm vóc
Trái tim ta chứa chung dòng máu Việt
Lan tỏa khắp địa cầu
Anh hùng hào kiệt, cang cường, oanh liệt
Mấy ngàn năm soi sáng lịch sử Việt Nam
Dễ gì bị đồng hóa, dễ gì bị tiêu diệt
Là trái tim Việt Nam bất di bất diệt
Chương Hà

Black April

Tôi viết bài thơ…đen Tháng Tư
Đau thương, uất nghẹn…hậnTháng Tư
Phận người trôi nổi vô bờ bến
Phận số em tôi cũng giã từ…


 Mơ thấy em về nét trẻ con
Gọi tên…em nở nụ cười son
Đi đâu em hỡi về nhà nhé!
Tôi gọi…mà sao nước mắt tròn


Đôi mắt em nhìn vẫn xanh trong
Bỗng đâu…mắt lộ máu tia hồng
Em đứng nhìn tôi dường muốn nói
Em đã chết rồi…chị biết không!


Nước mắt đầm đìa ướt gối bông
Em đi thay chị…xót xa lòng
Cậu đem theo Mợ bầu ba tháng
Biển dữ điên cuồng hét bão giông…


Hãy trả em về…trước Tháng Tư
Đau thương,mất mát…buồn Tháng Tư
Oán loài quỹ dữ không tim óc
Hận lũ yêu ma não nát nhừ


Tôi chẳng bao giờ…quên Tháng Tư
Miền Nam Nước Việt phủ mây mờ
Triệu dân Nước Việt rời bỏ xứ
Biển cả làm mồi lũ hải ngư


Thế hệ sau này có biết đâu
Mẹ cha khóc hận… hỏi sao sầu?
Vui ca nhảy múa mừng lễ lớn
Không biết vì sao “Black April”


Không có mùa Xuân…ở ThángTư
Màu đen bao phủ tận bây chừ
Miền Nam thương nhớ màu Cờ sáng
Thắp nén hương lòng…khóc Tháng Tư…


Erlinda Thuỳ Linh
04/01/2023  3:14PM
Chủ Nghĩa Vong Thân

Người nâng ly uống cạn nguồn vô cảm
Đắng trong cuống họng đắng cả trái tim
Lý tưởng bồng bềnh theo chiều gió cuốn
Trên thiên đường mù chủ thuyết đang chìm.

Mảnh đất quê hương tranh nhau xâu xé
Cờ đỏ búa liềm cấu kết chia phe
Chủ thuyết đàn hồi manh nha bán nước
Vờ vĩnh đốt lò thả khói u mê.

Cộng sản vô ơn tâm hồn mù quáng
Trí óc bào mòn tư tưởng giam tù
Danh vọng tiền tài con đường nô lệ
Vỗ ngực ta đây cặp mắt đui mù.

Lắm kẻ còn ham xum xuê bợ đỡ
Bán rẻ lương tâm vồ vập tôn thờ
Cay đắng trái tim máu đào nhỏ lệ
Quên mất cội nguồn mê muội dại khờ.

Tế Luân

Người Lính
Nơi Chiến Trường

Một mai gục ngã chiến trường
Xác thân bọc lại, vô thường chia xa
Tấm huy chương, ngực áo hoa
Mẹ ơi! Con đã nợ nhà trả xong.

Đừng cúi đầu, hãy cứng lòng
Từ nay Cha đã thong dong phận người
Em trai xin hãy nhớ lời
Học hành chăm chỉ cho đời vươn lên.

Chiếc xe quà tặng mang tên
Tình thương anh gửi riêng em chủ quyền
Chị ơi! Đừng quá ưu 
phiên
Em không về được, ngoài hiên bóng chiều.

Xin nói với người tôi yêu
Đừng than, đừng khóc, nhớ nhiều lòng đau
Người lính chiến nơi tuyến đầu
Anh Hùng Vị Quốc. Nguyện cầu quê hương.                                
Lê Tuấn
Phóng tác theo ý th
Trái tim người lính Ukraine
 

Ngày Cựu Chiến Binh

Nhớ hay quên đừng lạnh lùng quay gót
Chiến tranh đã qua người lính còn đây
Tóc đã bạc, nỗi đau hờn vong quốc
Rượu ân tình, xin hẹn buổi sum vầy.


Một chút tự hào, lòng thêm đau nhói
Đêm còn mơ, bừng tỉnh cõi hư không
Vết thương xưa hằn sâu trên da thịt
Nhận nỗi buồn mà thẹn với núi sông.

Lê Tuấn
Người lính già chưa giải ngũ.

Tháng Tư Mất Quê Hương

Lâu lắm rồi tháng tư buồn ngày ấy
Không hiểu sao tôi vẫn nhớ vẫn thương
Cuối tháng Tư tôi đã mất quê hương
Rồi xa mãi trong nỗi buồn biệt xứ.

Miền Nam Tự Do trong cơn đột tử
Triệu nén nhang buồn lịch sử sang trang
Ngày Quốc Hận, cõi hồn đau vô tận
Đất Mẹ buồn, phủ trắng một màu tang.

Miền Nam biến thành nhà tù cộng sản
Giam giữ trái tim, yêu chuộng hoà bình
Bắt người yêu nước giam vào ngục tối
Để văn thơ phá vỡ những nhục hình.

Tù cải tạo giam toàn những nhà thơ
Là đêm tối ánh sao trời rực rỡ
Bài thơ thức tỉnh thế giới loài người
Thoát khỏi u mê, phá vỡ đôi bờ.


Bắt hết tự do giam vào ngục tối
Tù nhân lương tâm, xứng đáng con người
Là tình yêu biết hy sinh cống hiến
Cho quê hương, lịch sử sáng ngời.


AET Lê Tuấn

Người lính già chưa giải ngũ
Tưởng nhớ ngày 30 tháng 4, 1975


Tháng Tư Chia tay


Tháng Tư về nắng hạ còn lưa thưa
Khói bụi hồng cơn mưa chiều rất lạ
Bóng chim hốt hoảng xa bay cuối phố
Gọi nhau về theo lối cũ em qua.


Tháng Tư nở muộn loài hoa tím dại
Chiến tranh về để lại những thương đau
Những mặt người lấp ló nơi đầu ngõ
Lo sợ điều gì? Muôn vạn nỗi sầu.


Lời nghẹn ngào bao điều chưa muốn nói
Chia cắt từ đây, nơi đất mẹ xa vời
Cho thương khóc một người đi biền biệt
Gói trọn trong tim ký ức bồi hồi.


Tháng Tư lại về gợi nhớ thêm buồn tủi
Biển chia xa đẩy lùi bóng chim bay
Ngày vĩnh biệt xa nhau là xa mãi
Sài Gòn buồn tháng Tư, ngày chia tay.


AET Lê Tuấn



Tháng Tư Đạn Lạc



Tháng Tư đạn lạc cánh chim bay

Thê thảm ngày buồn chuyện đổi thay

Phố xá tình xuân đành đứt đoạn

Ngày dài tháng muộn mấy ai hay.


Thương đau ngày cuối tháng tư về

Chia mối tình riêng đã hẹn thề

Đêm cúi mặt tuôn rơi lệ khóc

Nỗi buồn thổn thức dài lê thê.


Bóng chinh nhân huyền ảo trong mơ

Chiến sĩ hành quân giữ cõi bờ

Chinh chiến mịt mù bom lửa đạn

Lời thề xưa vẫn đợi mong chờ.


Tháng Tư vận nước đeo tang trắng

Đau nhói hồn ta vạn nỗi sầu

Chia cắt đời nhau trong góc khuất

Đôi bờ đôi hướng chạy về đâu.


Bờ yêu biển nhớ sóng vun đầy

Thấm nỗi lưu vong rượu uống say

Đã qúa xa rồi ngày tháng cũ

Bây giờ nhớ lại buổi chia tay


Nước non ngàn dặm vẫn chờ nhau

Số phận chia hai nối nhịp cầu

Vận nước bao giờ thay đổi mới

Ta về xây lại buổi ban đầu.


Lê Tuấn

Nỗi buồn tháng Tư

Xa Nhau Tháng Tư


Xa nhau ngày đó tháng tư về
Lạc mất tình xuân lỗi hẹn thề
Chia cắt đôi bờ xa khuất bóng
Cõi hồn thương nhớ buồn lê thê.


Dấu đi góc khuất một hồn thơ
Tiếng nấc chưa ngưng vẫn đợi chờ
Ngôn ngữ còn tuôn đầy nỗi nhớ
Lòng như chất chứa đầy trong mơ.


Người yêu biển nhớ mối tình đầy
Biền biệt tha phương giữa chốn này
Mỏi cánh chim bay trời gió lạnh
Buồn nào day dứt ngày chia tay.


Cơn đau thân phận cũng qua mau
Số phận chia đôi cả nỗi sầu
Năm tháng vấn vương ngày ly biệt
Tháng Tư, vận nước đã thay màu.


Lê Tuấn


Tháng Tư Lại Về

Tháng Tư buồn lặng lẽ
Nắng hạ còn đơn côi
Sương mù giăng khắp lối
Lòng xao xuyến bồi hồi


Em! Một thời để nhớ
Anh! Chinh chiến tơi bời
Sài Gòn thời hoa mộng
Lưu luyến một phương trời.


Con đường lá me bay
Đợi nhau mối tình đầy
Sông Sài Gòn dòng chảy
Cánh chim mờ chân mây.


Tháng Tư về hoang mang
Chiến tranh thật kinh hoàng
Đoàn người đi vội vã
Chia ly trong ngỡ ngàng.


Tháng Tư ta mất nhau
Hồn đau thấm nỗi sầu
Từ nay “Tự Do” mất
Chia đôi hai nhịp cầu.


Thái Bình Dương xa cách
Hai bên sóng vỗ bờ
Sóng thay màu tang trắng
Quê hương vẫn đợi chờ.


Em bây giờ mong đợi
Những yêu thương một thời
Sài Gòn ngày xưa ấy
Ta lạc nhau mất rồi.
Lê Tuấn
NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐẦU HÀNG
Cuối cùng cũng có được những người lính Nga trẻ mới bị bắt làm lính
Không khù khờ biết mình bị gạt gẫm
Đem thân hy sinh cho kẻ độc tài khát máu
Xâm lăng xứ người vô nhân nghĩa, vô đạo
Dù bỏ vũ khí hàng địch cũng không hèn
Biết phải trái, biết suy nghĩ
Phân biệt con người với ác quỷ
Vẫn còn những người có lương tri
Nhứt định không làm chuyện trái với lương tâm, mất lý trí
Đánh chiếm xứ người, giết người vô tội
Tội ác thiên cổ, suốt đời bị phỉ nhổ
Lảnh đạo ác nhân, đầy tham vọng
Chiếm chút đất của người ta mà tàn hại cả dân mình
Những người mới lớn lên buộc phải hy sinh
Chết mà tủi nhục
Lòng người Ukraine không hề khuất phục
Họ sẽ chống lại suốt đời mãn kiếp
Dù Nga có cai trị được trên hoang tàn đổ nát
Họ cũng vẫn quật khởi từng hồi, giết từng người xâm lược
Dù chỉ một bước trên quê hương họ cho được
Chương Hà
TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM .
Có ai hỏi anh là ai?
Tôi hãnh diện tôi là người Việt.
Chẳng cần phải vùng nào, miền nào hết
Nên bao giờ ai phân biệt bắc trung nam.
Cả nước tôi dân đều là người Việt.
Ai cắc cớ hỏi dân miền thắng hay miền thua thiệt
Rất xấu hổ cho họ, cho tôi, khi họ phân vân
Chủ nghĩa nào có được lòng dân
Dân tự do bầu, tự do bày tỏ
không bị ai quản lý, gò bó, đàn áp khủng bố mới là bên thắng cuộc
Được bảo vệ no cơm, ấm áo, trong quyền làm người sau trước
Lòng dân là sức mạnh dựng nên cơ đồ tổ quốc
Là chính nghĩa quê hương dân tộc
Là tâm huyết bảo vệ từng tấc đất của non sông
Giữ gìn biên cương, chống kẻ ngoại xâm
Nuôi văn hóa, tập quán và phong tục.
Nước tôi hơn bốn ngàn năm hiển hiện
Từng bao lần bị ngoại bang lấn áp triền miên
Vẫn cang cường quật khởi với bao anh hùng hào kiệt hiên ngang
Đã đoàn kết đồng tâm vững chãi lòng yêu nước
Dầu phải hy sinh giọt máu cuối cùng mới được.
Ai ngược lòng dân, hung tàn , bạo ngược, nối giáo hàng giặc
Sẽ bị hủy diệt, tự diệt
Ai sẻ chia, đùm bọc nuôi nhau bằng tình dân tộc
Đối xử bằng nhân nghĩa, đạo đức
Thì xứng danh, đích thực là người Việt Nam
Chương Hà

VINH DANH
Làm sao vinh danh những chiến binh Cộng Bắc
Chết dẫy đầy trên chiến trận miền nam Dưới làn bom rừng núi Trường Sơn Trong địa đạo, hố hầm du kích giặc
Hy sinh vì những hô hào bịa đặt
Quyết lòng muối mặt, chịu nô lệ Nga Tàu
Nhắm mắt, nhẫn tâm giết hại đồng bào Huỷ đời sống dân mình đang bình yên, tự do, no ấm
Chối lương tâm các anh đành đánh giặc mướn
Giải phóng gì, dân nào muốn anh đâu Các anh điên cuồng cưỡng chiếm miền nam bằng bạo lực, binh đao
Mà vênh vang tự đắc rổng “
Ta chiến đấu đây là cho Nga, cho Tàu Cộng
Cho chủ trương, thế giới đại đồng” Đại đồng các anh, là nô lệ, gông cùm
Ngàn năm đô hộ vẫn còn ngu muội
Các anh sống chết chỉ hổ danh, chỉ nhục, chỉ tủi
Chúng tôi vinh danh đây, những anh hùng muôn thuở
Dũng khí , hùng tâm, chói chang chính nghĩa
Vì dân lành, quyết giữ vững giang sơn, bờ cõi
Quá nhiều anh hùng, mà cả thế giới, không nước nào có nổi
Họ sống mãi với núi sông, tổ quốc không nguôi
Anh hùng chúng tôi toàn dân Việt yêu thương, tôn kính đời đời
Cả thế giới luôn cúi đầu bái phục
Bao vì tướng lảnh và bao chiến sĩ hy sinh bất khuất
Họ hào hùng sống chết với quê hương Danh thơm muôn thuở, tổ quốc mang ơn.
Chương Hà
Tháng tư,mỗi ngày một bài thơ xót xa
CỨ MỖI THÁNG TƯ
Những cơn sóng nhấp nhô,vồn vập, nổi trôi tràn dĩ vãng
Biển cả mênh mông, kinh hoàng và hãi hùng.
Cướp biển, đói khát, vật vã, xác vùi sâu biển khơi
Những vất vưởng, níu với, vượt rừng vượt bụi
Trốn chui, trốn nhủi, tránh loài quỷ dữ. thí mạng qua biên giới.
Tháng tư rã ngũ, tàn hơi vì lũ ngụy cố dồn áp lực.
Dẫu thí quân, lính già, lính trẻ gần hết. Ta thì cạn khí giới, đạn dược,
Đồng minh bỏ rơi, không tiếp sức. Trái lựu đạn chết chùm.
Đường rút lui tuyệt vọng.
Phát súng nghiệt ngã, vinh dự cuối cùng ghê tởm đón kẻ xâm lược.
Họ giải phóng một chánh nghĩa, để sát nhập một đảng cướp bất nghĩa, vô lương.
Bao ngậm ngùi, hờn tủi, dọn mình vào trại tập trung
Nhốt tù cải biến tư tưởng , hay đi đày vùng kinh tế mới.
Tháng tư hấp hối Chịu đựng để hận thù được gộp rửa từ kẻ thắng cuộc cố tình chụp mũ buộc tội.
Mệnh nước buông xuôi, dân tộc lênh đênh.
Tháng tư ãm đạm, buồn tênh
Trời sầu đất thảm, quê hương tang tóc, hoang tàn
Tất cả phải sụp lùi, xác xơ, trơ trọi. Những tiếng nấc trào trở vào tim phổi, tê dại, nhức nhối.
Tháng tư, một lịch sử cố sang trang mà để hàng mấy chục năm sau càng thêm tăm tối
Chương Hà
2020
Mỗi ngày tháng tư đen,từng bài thơ xót xa LÀM NGƯỜI VIỆT NAM RẤT BUỒN Khi ba tuổi tôi đã biết bò trốn dưới sàn ván khi nghe còi hụ máy bay Nhựt oanh tạc
Chín tuổi sụt sôi lòng đau dân tộc khi nghe trò Ơn trèo rào thành Oma chống Tây bị bắn chết
Học lịch sử, tôi biết nước tôi vẫn còn là thuộc địa
Dù chính nghĩa độc lập, tự do mơ hồ ý nghĩa mỗi khi đoàn học sinh chúng tôi hô hào “Đức Quốc Trưởng vạn tuế, ngài Thủ Tướng muôn năm”
Tôi biết người lao công hàng ngày vẫn lui cui cạo mủ cao su ở những đồn điền thực dân
Những người yêu nước còn đang còng lưng đập đá nơi Côn Đảo
Tuổi thanh niên của tôi chỉ vài năm nhận thức
Nửa nước mình thực sự thanh bình ,không nghe tiếng bom, tiếng pháo Người dân sung sướng no cơm, ấm áo Dù lắm ngậm ngùi đất nước bị phân đôi Dù xót dạ cho phần người thêm bị đọa đày trong xích cùm nô lệ mới
Hai mươi năm từng thế hệ chúng tôi phải gây hận thù bắn giết nhau
Làm vật hy sinh vô lối Người dân tôi hiền hòa, hơn mấy ngàn năm phải luôn tự vệ để sống
Ghê tởm chết chóc mà vẫn giặc ngoài giặc trong
Làm người Việt Nam rất buồn Khi thống nhứt phải trả nợ chiến tranh , phải đền ơn hổ trợ ngoại bang
Phải triều cống Đất nước vẫn bị bức biếp, chia cắt, mất mát, tương tàn
Chủ nghĩa thực dân, rồi chế độ cộng sản, người dân càng thống khổ muôn vàn
Càng đau lòng hơn vì là người mình đàn áp, khủng bố, tàn sát dân mình Ngụp lặn, suy sụp, nô lệ hơn trong ão tưởng đại đồng
Nước tôi tới bao giờ mới thật sự độc lập, thanh bình Tự do, dân chủ bền vững?
Làm người dân Việt thật buồn thảm
Chương Hà
Tháng tư đen, mỗi ngày một bài thơ xót xa
NGÀY QUỐC HẬN
Khi Cộng Sản mừng ngày chiến thắng Hoàn thành dã tâm
Mặt trận xâm lăng miền nam để ngơ ngáo, váo vênh, tự đắc
Nhờ ơn Nga Tàu đốc xúi, ép buộc
Người dân tôi thảng thốt khóc tháng tư đen, ngày quốc hận
Khổ đau chồng chất miền nam cùng miền bắc
Xót xa, điêu tàn, mất mát Là ai hy sinh, chiến đấu cho ngoại bang
Ai đem nồi da xáo thịt đồng bào Hảnh diện làm nô lệ, chư hầu
Miền nam có bị đô hộ đâu mà diệt Ngụy cứu nước
Người miền nam sống độc lập, tự do, no cơm, ấm áo Không gì quý hơn độc lập, tự do
Thật Sự Là độc lập không chư hầu , lệ thuộc
Cỏng rắn cắn gà nhà mà cho mà cho mình là chính trực
Miền nam người Việt yêu quê hương, tổ quốc
Theo gương tiền nhân quyết chống trả kẻ thù truyền kiếp
Phải tự vệ quyết bảo bọc dân lành vì chánh đạo
Tuyệt đối không cắt đất, dâng đảo
Lạy lục, van xin kẻ thù kề cận luôn hiếp đáp
Giết dân cả hai miền vì chút quyền thái thú đọc đảng cai trị, áp bức
Hãy nhìn bảy mươi năm qua dân được giải phóng mà càng bị bắt bớ , tù ngục Thống nhất để càng khốn khó
Trai lao động khắp xứ người Gái xả thân mọi nơi nước lạ
Đất nước lần hồi bị người ta làm chủ cả Dân đói rách phải làm thuê, làm mướn cho mọi chủ nhân trên cả quê hương mình
Đảng Nô Cộng trơ tráo mỵ dân
Dân làm chủ mà đảng quản lý chủ.
Xích xiềng, áp bức, xiết cổ, bóp họng Giết chẵng nương tay đồng bào ruột thịt
ao không biết gục đầu xấu hổ Thẹn với quê hương, nhục vong linh tiên tổ
Cuối tháng tư đen phủ phục
Sám hối ngày đại tang quốc nhục
Chương Hà
tháng 4- 2019
Thuở đó, tôi đã biết yêu thương tổ quốc
Đợi hàng tuần hăng hái cúi đầu trước lá quốc kỳ.
Thấm đậm lời công dân thầy tôi dạy kỹ. Bài hát quốc ca hùng hồn vang lừng một cõi:
“Nầy công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi”…
Thuộc địa dư, tôi vẽ đất nước Việt tôi, Hãnh diện hơn bốn ngàn năm tuổi.
Từ ải Nam Quan, đến mũi Cà Mau, Hoàng,Trường Sa, Côn Sơn, Phú Quốc.
Đất nước ốm yếu, sinh tồn trải dài hình chữ S.
Bao lần lệ thuộc làm tôi khóc Đau đớn, xa xót cho số phận dân tôi…
Tôi nhớ đời, lần cả lớp để tang Trò Ơn biểu tình, bị giặc Pháp giết. Tối nào cũng lặng im, cơm chan hòa tiếng nấc… Tôi lớn lên, vừa biết thế nào là tự do, độc lập
Vẫn mơ hồ khi hai miền nam bắc Che tủi nhục, bôi mặt bắn giết nhau thỏa sức.
Vì người lại làm tội đồ dân tộc, Cõng rắn cắn gà nhà. Đồng bào lầm than, giờ càng tang tóc…
Tôi khóc thương bao lần, những anh hùng dân tộc
Xả thân bảo vệ quê hương, dâng cả cuộc đời. Sống vi tướng, chết vi thần Gương thế gian sùng bái, ngưỡng mộ… Rồi bao chúng tôi phải bơ vơ, khổ nạn xứ người
Mà hồn quê đành nấu nung hướng về đất tổ. Bao lần tôi vạch dao khắc thơ trên đá,
Thấm máu đào người vượt biển, ghi dấu những nấm mộ hoang Gom xương tàn những người lính trận ức oan Thắp nén hương cho họ thơm hồn nước linh thiêng…
Mấy mươi năm xác thân cạn kiệt dần, Không thế̉ “hy sinh tiếc gì thân sống” mà chỉ còn dưỡng nuôi hy vọng Rồi dân tôi sẽ quật khởi, không hề khuất phục Lại dập dồn tiếng trống Hà Hồi, bập bùng đuốc linh Diên Hồng mở hội…
Tai tôi nghễnh ngãng dần, vẫn âm vọng hoài “Nầy công dân ơi” Mà máu tôi cứ sục sôi, khi nhìn lá cờ vàng bay phất phới T
ôi sẽ níu vói đứa cháu nhỏ,dìu đứng lên khắp khởi S
ung sướng, say sưa, sát cánh đồng bào quanh tôi
Nao nao cùng hát vang câu “Đáp lời sông núi”
CHƯƠNG HÀ
   Tháng Tư Chiến Sĩ Về Đâu

Mưa Tháng Tư lính buồn thầm nghĩ
Mất quê hương tráng sĩ về đâu
Sóng đời gây cảnh bể dâu
Anh hùng lỡ vận nuốt đau vào lòng
 
Nhớ chinh chiến ngược dòng gió bụi
Tháng năm dài rong ruổi đao binh
Tung hoành khí phách trung trinh
Xông pha trận mạc quên mình hiểm nguy
 
Từng tất đất biên thùy trấn giữ
Đất Rồng Tiên lịch sử khắc ghi
Mưa cuồng nắng cháy sá chi
Tinh thần trách nhiệm không gì cản ngăn
 
Quân nhân cũng ngắm trăng lãng mạn                                                                                            
Mời Hằng Nga uống cạn rượu tình
Nhờ mây với gió đi tìm
Giấc mơ tao ngộ giữa nghìn vì sao
 
Lính còn thích hoa đào mai nở
Nắng chan hòa rực rỡ mùa xuân
Sương chiều nghe dạ bâng khuâng
Kéo dài hơi thuốc nhìn vầng khói lan
 
Tàn cuộc chiến nhà tan nước mất
Tha hương, tù, ức uất quyên sinh
Trôi theo con sóng vô hình
Mồ hoang cỏ phủ anh linh nghẹn ngào
 
Mưa Tháng Tư thấm trào nước mắt
Người lính già se thắt nhớ thương
Mong ngày trở lại cố hương
Thăm sông núi biển con đường cái quan

Nỗi Lòng Chinh Nhân
Đồn xa biên giới những đêm trường
Nhớ mấy cho vừa chốn hậu phương
Bút rót miên man từng nét chữ
Thư tràn dào dạt lắm niềm thương
Chinh nhân mang cả trời tâm sự
Chiến sĩ ôm đầy nỗi vấn vương
Gánh trọn hai vai tình đất nước
Đâu ngờ dang dở khóc quê hương
Dương Việt-Chỉnh
THÁNG TƯ VÀ NƯỚC MẮT 
Tháng tư  những giọt lệ buồn
Khóc cho đất nước, khóc thương quê nhà
Khóc cho mẹ, khóc cho cha
Khóc cho bụng đói xót xa tháng ngày
Khóc không hộ khẩu không nhà
Khóc đời vất vả bôn ba chợ trời 
Khóc con vượt biên chết rồi
Khóc chồng cải tạo thây phơi rừng già
Khóc mờ đôi mắt xót xa
Khóc thành sông suối, lệ hòa máu tươi.
Khóc thương một kiếp con người 
Khóc buồn thân phận đổi đời nghiệt oan
Khóc cho số kiếp lầm than
Trăng treo đỉnh núi thiên đàng bỏ không.
 
Nguyễn thị Thêm
28/4/2023
 
THÁNG TƯ

Ta nhớ tháng tư
Buồn rơi nước mắt
Ta chạm tháng tư
Bao điều mất mát
Ta ôm tháng tư
Vòng tay thất thoát
Ta khóc tháng tư
Tuổi đời già chát
Ta giữ trong ta
Trái tim rách nát
Để nhớ để thương
Tháng tư ngày nào…
 
Buổi chiều Cali
Mây buồn gợi nhớ
Ta ngồi ta thương
Người lính ngày xưa.
 
Nguyễn thị Thêm
28/4/2023

Hôm nay, 48 năm tưởng niệm ngày Quốc nạn, Quốc hận, Quốc tang 30.4.1975.
Tôi thức dậy sớm, xem thời tiết, sẽ mưa suốt ngày. Gọi một người bạn. Có đi chào cờ không?
Trả lời: Nếu mưa tạnh. Nghe đây ông bạn già: Bão cũng phải đi, tôi có giác quan … thứ bảy.
11 giờ, trời vẫn mưa lớn, như thách thức Ban Tổ Chức. 12 giờ khai mạc, mưa bỗng giảm lại, sau đó là lắc rắc. 
Tôi quên mất những người trên khán đài, đang đứng chung quanh Eden Center, nhìn lên bàn thờ dưới cơn mưa. Bốn lá cờ khóc sướt mướt. Trên cột cờ, lá cờ rũ buồn bã số phận lưu vong. 
Dưới cơn mưa, những khung hình 8 vị tướng tuẫn tiết trên bàn thờ vẫn sống động, đang chăm chú nhìn mọi người.
Bao nhiêu năm chiến tranh, chỉ có một ngày đáng nhớ, nhưng không thể viết hết thành lời, bởi thảm kịch đất nước đã vượt khỏi biển khơi.


30.4.1975, Việt Nam Cộng Hoà đã đóng lại số phận của hai mươi năm chiến đấu và xây dựng. Nhưng những di sản lớn lao của 
Việt Nam Cộng Hòa đang lộ rõ khắp miền Nam, tiềm tàng nơi miền Bắc, sống động nơi những vùng đất người Việt chọn làm gia nghiệp với những sinh hoạt bảo tồn văn hoá. Di sản Việt Nam Cộng Hòa còn thấy được mỗi ngày nơi những bản nhạc đầy sinh lực của miền Nam thanh bình hay của tiền đồn xa xưa, và ngày nay trên đường phố Hà Nội.


Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một chế độ sống sót trong một giai đoạn lịch sử, nhưng tinh thần và di sản của dân tộc Việt Nam sẽ trường tồn.
Người miền Nam 
trong nước hay tha phương nay đã khô lệ.  Nhưng hôm nay, tại Eden Center, Trời đang khóc thay cho họ.
Người Việt đang tiếp tục viết lịch sử Việt Nam.
Chu Lynh
Tháng Tư Đạn Lạc

Tháng Tư đạn lạc cánh chim bay
Thê thảm ngày buồn chuyện đổi thay
Phố xá tình xuân đành đứt đoạn
Ngày dài tháng muộn mấy ai hay.

Thương đau ngày cuối tháng tư về
Chia mối tình riêng đã hẹn thề
Đêm cúi mặt tuôn rơi lệ khóc
Nỗi buồn thổn thức dài lê thê.

Bóng chinh nhân huyền ảo trong mơ
Chiến sĩ hành quân giữ cõi bờ
Chinh chiến mịt mù bom lửa đạn
Lời thề xưa vẫn đợi mong chờ.

Tháng Tư vận nước đeo tang trắng
Đau nhói hồn ta vạn nỗi sầu
Chia cắt đời nhau trong góc khuất
Đôi bờ đôi hướng chạy về đâu.

Bờ yêu biển nhớ sóng vun đầy
Thấm nỗi lưu vong rượu uống say
Đã qúa xa rồi ngày tháng cũ
Bây giờ nhớ lại buổi chia tay

Nước non ngàn dặm vẫn chờ nhau
Số phận chia hai nối nhịp cầu
Vận nước bao giờ thay đổi mới
Ta về xây lại buổi ban đầu.

Lê Tuấn

Nỗi buồn tháng Tư

Tháng Tư Chia tay

Tháng Tư về nắng hạ còn lưa thưa
Khói bụi hồng cơn mưa chiều rất lạ
Bóng chim hốt hoảng xa bay cuối phố
Gọi nhau về theo lối cũ em qua.

Tháng Tư nở muộn loài hoa tím dại
Chiến tranh về để lại những thương đau
Những mặt người lấp ló nơi đầu ngõ
Lo sợ điều gì? Muôn vạn nỗi sầu.

Lời nghẹn ngào bao điều chưa muốn nói
Chia cắt từ đây, nơi đất mẹ xa vời
Cho thương khóc một người đi biền biệt
Gói trọn trong tim ký ức bồi hồi.

Tháng Tư lại về gợi nhớ thêm buồn tủi
Biển chia xa đẩy lùi bóng chim bay
Ngày vĩnh biệt xa nhau là xa mãi
Sài Gòn buồn tháng Tư, ngày chia tay.

Lê Tuấn
Nỗi buồn Tháng Tư 

Xa Nhau Tháng Tư

Xa nhau ngày đó tháng tư về
Lạc mất tình xuân lỗi hẹn thề
Chia cắt đôi bờ xa khuất bóng
Cõi hồn thương nhớ buồn lê thê.

Dấu đi góc khuất một hồn thơ
Tiếng nấc chưa ngưng vẫn đợi chờ
Ngôn ngữ còn tuôn đầy nỗi nhớ
Lòng như chất chứa đầy trong mơ.

Người yêu biển nhớ mối tình đầy
Biền biệt tha phương giữa chốn này
Mỏi cánh chim bay trời gió lạnh
Buồn nào day dứt ngày chia tay.


Cơn đau thân phận cũng qua mau
Số phận chia đôi cả nỗi sầu
Năm tháng vấn vương ngày ly biệt
Tháng Tư, vận nước đã thay màu.
Tế Luân

NHỚ  SÀI-GÒN
                        
Đình Duy Phương 
Tiếng ai than thở nhớ Sài-Gòn
Thổn thức lòng tôi, ôi héo hon 
Phố cũ người xưa giờ đã mất 
Sài-Gòn ẩn hiện bóng vàng son.


Sà-Gòn tôi, dáng hình mơ mộng 
Đẹp não nùng, hòn ngọc Viễn-Đông
Bão táp phong ba bao thế hệ 
Qua lần mài dũa ngọc càng trong .


Tôi vẫn nhớ quanh trường phượng vĩ
Hoa phượng nhiều rợp đỏ đường đi. 
Ngôi nhà Thờ kiến trúc uy nghi
Chùa lợp mái cong cong tuyệt mỹ.


Catinat, đường Tự Do phơi phới 
Khách nước ngoài thăm viếng tới lui
Kia Chợ Bến Thành bốn cửa lớn
Đông Tây Nam Bắc gặp nhau cười !


Đường Nguyễn Huệ hoa xuân rực rỡ
Mai vàng Thủ Đức rợp trời thơ 
Trái cây dưới tỉnh về  nườm nượp 
Nhớ lại ngày Xuân, tưởng giấc mơ .


Người tượng đá rơi dòng lệ nóng 
Nhớ Sài Gòn nhớ cả non sông 
Sóng trùng duơng nổi dậy trong lòng
Sài Gòn  hỡi Em còn đó không ?
(Trích tập Thơ Đình Duy Phương 2004)



THÁNG TƯ BUỒN
Trong no ấm mà nằm gai nếm mật
Hưởng thanh bình ngỡ kề cận binh đao
Bởi vì ai đã phản bội đồng bào
Nối giáo cho giặc tràn vào vây hãm .


Trời Tháng Tư chưa phai màu ảm đạm
Khí oan khiên cao ngất khắp phương trời
Nơi quê hương hồn lạc phách chơi vơi
Trên biển cả sóng trùng khơi nức nở


Đất của mình tuồng như là mượn ở
Ruộng nương nhà bị phá vỡ từ lâu
Bao dân oan chịu giày xéo đớn đau
Từ Nam chí Bắc người nghèo rên xiết


Sau mấy mươi năm sao chưa hiểu biết
Vẫn tin tập đoàn bức tử dân ta
Công an quân đội ráng giữ San Hà 
Đừng cho kẻ ác được đà xâm lấn !


Tháng Tư buồn, vực dậy lòng hưng phấn
Thế nước nhà nghiêng ngửa cán bàn cân
Nền Tự Do Dân Chủ nặng vạn lần 
Toàn Dân gánh vác dự phần đuổi giặc .
Đình Duy Phương.

California 2004.



DỆT NỐT VẦN THƠ 


Anh ạ, tháng ngày mau quá nhỉ 
Giờ này nơi ấy có mưa không 
Có thời gian đọng dòng bi lụy 
Cho em giữ mộng chí tang bồng .


Dệt nốt vần thơ kẻo gió mong 
Canh khuya giá lạnh ngỡ đêm Đông 
Ngoài sân cây lá khua nghiêng ngả
Mưa xuống tuôn dòng, gió chuyển giông …


Có phải người đang mãi đợi mong 
Hồn thơ mở lối nhớ non sông 
Bao mùa chinh chiến qua ngàn dặm 
Ngọn gió giao duyên kết chữ đồng.


Buổi sáng ánh dương hồng nắng đẹp 
Chiều hoàng hôn xuống tím màn đêm 
Anh linh Chiến Sĩ còn vương vấn 
Chẳng biết bây giờ có nhớ tên  


Bia đá ngàn năm còn đứng đợi
Hỏi người có giữ được trăm năm
Tình thơ dệt nốt nghe vời vợi
Nhạc khúc ru hồn anh ghé thăm.
Đình Duy Phương 
USA.  April, 2023
BUỒN
( Nhân Kỷ Niệm 30-tháng Tư Đen -THƯ KHANH  Tự Vịnh  )
Không gì buồn bằng tuổi già ,
Chân đi không vững mắt mờ kính đeo .
Muốn làm thơ ưót át… tình yêu ,
Tình khô như củi trớ trêu thế này .
*
Thơ làm tranh đấu chờ thời ,
Xông pha cứu nước – để chơi ngồi nhìn .
Quê Hương ơi ! Xin cứ bình yên ,
Chờ Thời Vận Tốt sẽ nên cơ đồ .
Cờ vành ba sọc tung hô ,
Cơm No Áo Ấm Tự Do ta về .
THƯ KHANH -4/19/2023 .
CHIỀU CHIỀU
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau T
rông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Tôi trông ngõ sau
Tôi ngóng ngõ trước
Quê hương nơi đâu tôi vẫn không tìm được
Chỉ vang vọng cả ngàn năm lệ thuộc Đau đớn , xót xa dân tôi sau trước
Vào rừng, xuống biển, ngọc trai, ngà voi, châu báu, vàng bạc
Đều buộc cống dâng thiên quốc
Ngậm cay, nuốt đắng, cắn răng chịu nhục
Rồi cũng vùng lên bất khuất Nước Nam luôn là của dân Nam
Vững vàng, Tự Do , Độc Lập Không thể nào đồng hóa những người không hề khiếp nhược
Dẫu có lần có người hèn nhát
Cõng rắn cắn gà nhà, giết dân, dâng nước
Tội đồ dân tộc Thì liền có Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…
Trước sau, hàng hàng, lớp lớp anh hùng Nung nấu sục sôi lòng dân
Vì quê hương quang phục
Lịch sử chứng minh sau trước
Nhưng sinh nhầm thời nhiễu nhương, lòng đành đau xót Thân phận nhược tiểu, cường quốc tranh đua, giành giựt Còn kẻ phản quốc bán nước cầu vinh Bất đắc dĩ xa quê lòng dạ không đành Nơi xứ lạ xót xa không dứt
Ôi dân tôi.
Dân tôi ơi Là lúc ta lại mau vùng dậy Hãy mau cùng nhau, hàng hàng , lớp lớp
Đấu tranh cho ngày lại vinh quang dân tộc
Đời đời DÂN CHỦ, TỰ DO, ĐỘC LẬP
Chương Hà
HỒN DÂN TỘC
“Những ai đã chết vì sông núi Sẽ sống muôn đời với núi sông”
Đất nước tôi sanh bao vị anh hùng
Để tôi hảnh diện làm người dân Việt
Nợ núi sông tôi vững tâm gánh vác
Khi giặc thù còn giày đạp quê hương
Người dân tôi sẽ hy sinh tới giọt máu cuối cùng
Quyết gìn giữ sơn hà từng tấc đất
Có ngàn người bị giết
Hàng triệu người sẽ bất khuất vùng lên Sẽ cùng nhau một dạ, một lòng
Quét sạch hết kẻ thù dân tộc
Sẽ cương quyết giữ tự do, độc lập
Để muôn dân có đời sống bình an
Thân nhược tiểu nhưng chưa hề khuất phục ngoại bang T
rên thế giới vẫn Việt Nam , đời đời ngạo nghễ
Chương Hà
TRONG GIẤC MƠ
Trong giấc mơ Tôi thấy quê hương loang lỗ Nơi nơi đã thuộc về người T
ôi thấy dân tôi cuối đầu lấm lét
Phủ phục thân phận tôi đòi T
iếng mẹ sinh tự nhiên sửa đổi
Cho phù hợp tiếng giặc thù Bán cả tiền đồ hậu thổ Hại dân, một lũ Cộng nô
Tôi thấy trẻ thơ chào đời bỡ ngỡ
Bập bẹ tiếng nói ngây ngô
Hai chữ mẹ cha đã bỏ
Thế bằng nị ngộ bô bô Xót xa, tủi nhục Tiếc mình phận mỏng Làm sao vá víu cơ đồ
Ông cha gầy dựng bằng xương máu Hồn oan bao người gục ngã máu chưa khô Tổ quốc gắn bó
Tình chẵng phai màu
Tôi thấy giấc mơ tôi khốn khổ
Lệ còn đẩm ướt cả đêm thâu
Chương Hà
MẤT TÍCH
(Truyện xóm tôi 30 tháng tư 1975.)
Sau ngày 30 tháng tư 1975 bao nhiêu gia đình gặp cảnh tang thương mất mát. Thành phố đã ngừng tiếng súng, cộng quân đã quản trị thủ đô Sài Gòn.
Người ta lần lượt sớm muộn trở về với gia đình, dù là tấm thân tàn nhiều thương tích, dù lòng còn hằn nỗi đau của người bại trận sau cuộc chiến tranh dài.
Nhưng xóm tôi có bốn người mất tích mà vẫn chưa thấy trở về và cũng chẳng nghe tin tức gì từ họ.
Chồng chị Kim Oanh là lính đóng ở Tây Ninh. Anh không về nhà cha mẹ ruột cũng chưa về với vợ con. Không biết giờ này anh đang ở đâu?
Chị Kim Oanh và hai đứa con nhỏ ngày đêm trông ngóng tin anh.
Chị Hương cũng như chị Kim Oanh, có một con nhỏ và bụng thì đang mang bầu vài tháng. Chồng chị là đại úy đóng quân ngay Long An, chẳng xa Sài Gòn là bao. Chẳng lẽ anh không kịp chạy về với vợ con trong lúc dầu sôi lửa bỏng?
Người thân và hàng xóm của hai chị không ai dám nghĩ tới những xác chết vô thừa nhận, có xác được đắp chiếu, có xác nằm xấp nằm ngửa đầy máu me chẳng rõ mặt mày bên những đống rác, những vật dụng bị đốt cháy ngùn ngụt hay đã cháy xong còn lại một đống tro tàn lửa bỏng ở khắp các tỉnh lộ, ở ngoài đường phố Sài Gòn của những ngày tàn cuộc chiến.
Họ đều lạc quan an ủi và cầu mong rằng biết đâu anh ấy đang lẩn trốn đâu đó chưa dám ra trình diện chính quyền hoặc may mắn hơn đã…xuống tàu ra khơi đi Mỹ..
Trường hợp thứ ba là nhà chị Yên. Thằng Bảo con trai lên 7 và Ngọc đứa con gái lên 5, chẳng liên quan gì đến lính tráng mà cũng biệt tăm biệt tích.
Ngày 29 tháng tư  chị Yên dẫn hai con đến nhà cậu Dũng, người em ruột ở Sài Gòn gần bến Bạch Đằng để bàn tính cùng họ tìm cách xuống tàu chạy trốn khỏi Sài Gòn đang mất vào tay Việt Cộng.
Khi đã quyết định chị Yên để hai con ở lại, vội vã về nhà đợi chồng sẽ từ trại lính trở về cùng sửa soạn hành lý cần thiết tối thiểu để mang theo cuộc hành trình.
Khi vợ chồng chị Yên quay lại nhà Dũng thì cả nhà mới tá hỏa hai đứa con chị Yên đã đi đâu mất rồi, tìm hoài không thấy. Chúng đi chơi đâu đó hay đợi bố mẹ lâu nên sốt ruột ra ngoài đi tìm chăng?
Cả hai gia đình lo lắng tìm con tìm cháu không thấy, chẳng còn tâm trí nào mà ra bến Bạch Đằng mong được lên tàu như dự tính nữa.
Vợ chồng chị Yên đau khổ bao nhiêu thì vợ chồng cậu Dũng cũng khổ đau bấy nhiêu, thêm lòng dày vò ân hận vì không trông nom để thất lạc hai cháu nhỏ trong thời điểm nhà tan cửa nát này.
Sau ngày 30 tháng tư, có người hàng xóm quả quyết với vợ chồng chị Yên là họ thấy thằng Bảo và con Ngọc ở bến tàu Sài Gòn, họ cũng tìm cách chen lấn đám đông để lên tàu nhưng không được.
…………………..
Một năm trôi qua, chị Kim Oanh vẫn không nghe tin tức của chồng nên chị làm bàn thờ chồng, lấy ngày 30 tháng tư làm ngày giỗ.
Chị Yên cũng định lập bàn thờ hai con cho có hương khói ấm lòng nếu chúng đã vong mạng trong cái ngày 30 tháng tư định mệnh đó. Nhưng anh Yên, không biết để an ủi tinh thần vợ hay anh vẫn lạc quan thật sự, anh nói rằng cứ chờ đợi và biết đâu sẽ có ngày tìm được tung tích hai con.
Chị Hương tuy vẫn không có tin tức chính thức của chồng, nhưng chị nghe loáng thoáng từ mấy người lính của chồng chị, kẻ thì  nói rằng  vẫn gặp anh những ngày cuối tháng tư, người thì nói anh đã lên tàu ra khơi.
Những tin tức mong manh đó đã là sự thật. Một hôm chị Hương nhận được thư chồng từ …trại tù cải tạo, chị mới vỡ lẽ ra chồng đã rời Việt nam đến đảo Guam và trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín. Hiện tất cả đang bị giam cầm chứ không được trở về ngay với gia đình như họ đã lầm tưởng đã mong muốn khi quyết định hồi hương.
Thời buổi bao cấp nghèo đói một nách hai con thơ lại phải lo cho người chồng đang tù tội chị Hương đã không thể gồng gánh lâu dài nổi. Chị trách chồng đã đến được bến bờ tự do mà còn đâm đầu quay trở về Việt nam để khổ cho chính bản thân mình và khổ cho cả vợ con. Cha mẹ chồng đều qua đời chỉ còn anh chị em mỗi người một phận dù có thương anh cũng chẳng ai giúp được gì.
Hai năm sau chị Hương bán nhà. Hàng xóm bàn tán là chị Hương lấy chồng cán bộ, chị dọn đi nơi khác để tránh những dèm pha dị nghị của hàng xóm. Có người còn ác miệng kể chi tiết hơn là chị đã gởi trả hai đứa con về bên nội để tự do vui duyên mới.?
Năm năm sau chồng chị Hương ra tù và có về xóm cũ, căn nhà cũ đổi chủ. Anh sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa trẻ đẹp trai oai hùng ngày nào mà chỉ sau mấy năm tù tội cộng sản đã biến hình tiều tụy già nua. Không gặp vợ con, anh quay về làng quê, không biết những người thân của anh còn có ai ? Hai đứa con anh đang ở với mẹ nơi nào ? hàng xóm ai cũng cảm thương và tò mò thắc mắc nhưng không ai biết được câu trả lời.
                 ************
Gia đình cậu Dũng đi Mỹ theo diện HO  tháng hai năm 1992.
Mười bảy năm trôi qua, cả gia đình chị Yên và gia đình cậu Dũng luôn mang nặng nỗi đau đớn trong lòng nhưng họ vẫn hằng mong có dịp tìm ra tung tích hai đứa trẻ thất lạc dù mong manh như mò kim đáy biển. Ở Việt Nam không có tin tức gì của chúng thì biết đâu sang Mỹ sẽ tìm ra manh mối.
Chị Yên gởi Dũng một túi hồ sơ gồm giấy tờ khai sinh và hình ảnh mới nhất so với thời điểm 1975  của thằng Bảo, con Ngọc để sang đến Mỹ cậu Dũng sẽ đăng tin tìm hai cháu.
Sau hai năm nhờ các cơ quan, hội hồng thập tự tại Mỹ tìm kiếm không thành công cậu Dũng đành báo tin cho anh chị. Tình trạng lại trở về như thuở ban đầu, chẳng biết chúng sống chết nơi đâu?
Thế là ba gia đình có người thân “mất tích” hôm 30 tháng tư năm 1975 ở xóm tôi đều đã có những đoạn kết buồn.
Gia đình chị Yên vẫn tiếp tục cố nuôi ngọn lửa hi vọng mỏi mòn suốt mấy chục năm qua hai đứa con còn sống đâu đó trên cõi đời này nhưng họ vẫn thắp nhang cho chúng vào mỗi năm 30- tháng Tư.
Gia đình chị Kim Oanh, chồng chị mãi mãi không một nấm mồ. Nhưng hình ảnh anh trên bàn thờ vẫn hương khói khi tháng Tư về
Gia đình chị Hương. Người chồng đã vì thương nhớ vợ con mà dại dột từ phương trời tự do quay trở về Việt Nam vừa rơi vào tay cộng sản, chưa gặp vợ, chưa nói với vợ  lời vui mừng tao ngộ đã vào vòng tù tội. Gia đình tan nát, tình nghĩa vợ chồng bạc bẽo chia lìa. Bao nhiêu năm qua, vợ chồng con cái họ có dịp nào gặp lại nhau chưa?
Nguyễn Thị Thanh Dương
( March 24, 2023)
 
 
 
 ANH CUẢ BÉ MÙI.

Anh vừa ra trường là tân binh,
Chưa có người yêu chưa gia đình,
Em là con bé nhà hàng xóm,
Bé lắm, nên chỉ là em anh.
 
Lần nghỉ phép anh về thăm nhà,
Thấy anh, em hớn hở chạy qua,
Hai anh em chụp chung tấm ảnh,
Em thấp anh cao trước cửa nhà.
 
Tặng em hình này anh ghi lời:
“ Kỷ niệm một lần về phép vui…”
Nét chữ cứng cỏi mà bay bướm,
Anh ký tên “Anh của bé Mùi “.
 
Bé Mùi tuổi chỉ mới mười hai,
Anh người lính trẻ tuổi đôi mươi,
Tình anh em giữa mùa chinh chiến
Về đâu ? Thời gian sẽ trả lời.
 
Em rất thích lấy hình ra xem,
Người anh hàng xóm nắm tay em,
Anh mặc quân phục trang nghiêm lắm,
Em còn khờ chưa biết làm duyên..
 
Anh là lính trận chốn xa xôi,
Thỉnh thoảng mới về thăm nhà thôi,
Em đã lớn thêm vài tuổi nữa,
Em thấy nhớ “ Anh của bé Mùi “.
 
Anh là lính trận đi khắp nơi,
Áo tân binh ấy đã cũ rồi,
Người tân binh đã quen sương gió,
Em thấy thương “ Anh của bé Mùi “.
 
Anh chẳng hiểu em, anh vô tình,
Trong lòng em ghi bóng hình anh,
Anh và em càng thêm xa cách,
Khi đất nước mình còn chiến tranh..
 
Và đất nước thời cuộc bể dâu,
Tháng Tư bảy lăm anh về đâu ?
Bé Mùi nơi quê người xứ lạ,
Có lẽ không bao giờ gặp nhau .
 
Tấm ảnh ngày xưa đi theo em,
Kỷ niệm này em sẽ không quên,
Dù nét chữ mờ theo năm tháng,
Dù em sẽ gìa theo thời gian.
 
“ Anh của bé Mùi” ngày xưa ơi,
Hình bóng anh quanh quẩn trong đời,
Anh còn sống hay anh đã mất ?
Anh vẫn là “ Anh của bé Mùi “..
 
   Nguyễn Thị Thanh Dương.
         ( July,3, 2016)
Mong rằng “Anh của bé Mùi” vẫn còn sống đâu đó trên cõi đời này. Cám ơn tấm ảnh ngày xưa đã cho tôi đề tài bài thơ.
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ SAU CUỘC CHIẾN.
 
Hôm nay 29/4/2023 tôi ngồi một mình trong phòng, trước mặt là màn hình computer. Ngày mai là ngày mà ai là người VN lưu vong đều phải nhớ. Trong tôi ngập tràn nỗi nhớ chồng. Thật tếu và mắc cỡ khi mình lại nói ra điều đó khi tuổi không còn trẻ. Hình bóng người lính đã bị bào mòn và không thể xuất hiện 48 năm rồi. Anh chàng đại úy phong sương ngày xưa của tôi đã chết. Chết cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái áo lính của chồng tôi mặc mỗi khi đi chăn trâu, cắt cỏ, cấy lúa trồng khoai ngoài đồng cũng đã rách nát không còn. Người lính đã tan hàng đã bị xóa sổ một cách bi đát, còn những người vợ lính thì sao? Nếu trẻ nhất họ cũng đã trên 65 tuổi, thời gian quá dài để thương đau đọng lại làm những tì vết không thể xóa mờ. Nước mắt không còn bao nhiêu để khóc cho cuộc đời còn lại.
Tôi lại nhớ đến những người phụ nữ của phe thắng cuộc . Chứng nhân có thật là những người trong gia đình chồng tôi. Họ được gì và mất gì sau khi tàn cuộc chiến.
……
Tôi đi theo mẹ chồng đến đốt hương bên ngoại. Ông bà ngoại của chồng tôi  có 5 cô con gái và một người con trai út. Mẹ chồng tôi là đứa con gái thứ hai trong gia đình. Cả 5 người con gái bây giờ đều đã già, con cháu thật đông, cuộc sống không giàu có lắm nhưng đều khá giả hoặc đủ ăn đủ mặc. Người con trai út của ông bà ngoại chồng tôi đi theo Cách Mạng chống Tây hiện là bộ đội phục viên mang quân hàm thượng úy.
Chồng tôi đại úy ngụy, cậu chồng thượng úy cách mạng. Hai chức ngang nhau ở hai chiến tuyến đối nghịch. Thật sự tôi chưa từng gặp mặt ông thượng  úy này chỉ nghe mẹ chồng mừng vui báo tin ông còn sống và  vội vã thu xếp về quê theo lời nhắn gửi của ông.
Mụ yên tâm về làng, mọi việc có bầy choa lo. Không răng mô.
Tôi về quê chồng, chưa quen khí hậu nơi này, chưa biết tắm sông, chưa quen giặt đồ ở bến, chưa biết nấu cơm bằng rơm, chưa quen ăn nước ruốc, hai vai còn sưng to vì tập gánh nước từ dưới sông về nhà. Chỉ mới mấy ngày để tập tành mọi thứ, mẹ chồng tôi đã dẫn tôi đến lạy bàn thờ bên ngoại. Nhà bên ngoại cách nhà bên nội chỉ qua một con đường, ngăn cách bởi cái ao hồ. Cho nên muốn qua ngoại phải đi con đường vòng, qua mấy nương vườn nhà người khác, cái chợ, cây đa, đình làng, ra đường lộ đi một lúc mới tới nhà. Nếu đứng ở bên nhà ngoại kêu to, ới một tiếng lớn là nhà bên nội có thể nghe.
Khi cha chồng tôi xin hỏi cưới mẹ chồng. Lễ hỏi đã xong mà cha chồng tôi phải đến nhà vợ làm rể ba năm mới được cho cưới. Làm rể ngày xưa không dễ, phải làm như việc nhà mình, tận tụy và siêng năng mới cưới được vợ. Cha chồng tôi là con con trai đích tôn, là con cầu con khẩn của dòng họ hiếm hoi con cái. Được cái cha chồng tôi rất hiền, bên đàng gái muốn gì ông cũng chìu để cưới được vợ. Mẹ chồng tôi giỏi giang, buôn bán tháo vát lo cho gia đình nên bên ngoại không muốn gả liền để còn nhờ cậy. Thật không may, cưới được mấy năm cha chồng tôi mất sớm. Dù tuổi đời còn trẻ, mẹ chồng vẫn ở vậy lo cho ba đứa con và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng.
Nghe kể lại, mùa xuân năm nào đó ghe tàu của Tây chạy tuần tra dưới con sông Ô Lâu trước nhà bên nội, du kích quân núp ở nhà dân xả súng bắn tàu. Lính Tây nổi giận đổ bộ lên bờ đốt sạch nhà cửa, ruồng bố du kích. Lửa cháy khắp làng. Mẹ chồng tôi chỉ kịp lôi ba đứa con chạy núp dưới ao hồ, tính chạy lên dẫn cha mẹ chồng chạy trốn nhưng ngọn lửa đã bùng lên dữ đội, lính Tây cầm súng ruồng bố la hét om trời. Mẹ chồng tôi ôm con không dám khóc, bụm miệng các con không cho la. Căn nhà của gia đình và những nhà lân cận cháy phừng phừng trước mặt. Tây rút đi, xác ông bà nội chồng tôi cháy co rút tội tình. Năm đó mùi thây người khét lẹt bao trùm không gian, ngày đại tang của cả làng. Nhà nào cũng có mất mát cũng có người chết thật thê lương.  Đó là ngày 12 tháng giêng năm nào tôi không biết. Chỉ biết đó là ngày kỵ giỗ ông bà  nội chồng.
 
Tôi đến đây để ra mắt tổ tiên bên chồng nên tôi đảo mắt tìm bàn thờ. Nơi thờ phụng tổ tiên nhà miền Trung không giống miền Nam. Miền Nam ngay gian giữa nhà trang trọng đặt bàn thờ, bước vào nhà là thấy ngay như muốn nhắc nhở khách tới nhà phải biết lịch sự, phải tôn trọng tổ tiên gia chủ. Bàn thờ là một bộ tủ thờ rất đẹp chạm khắc tinh xảo ( hoa văn và chất lượng gỗ tùy theo kinh tế của gia chủ). Tủ thờ cao khỏi đầu người, trên bàn thờ bộ lư đồng để giữa, bát nhang để phía sau, hai chân đèn bằng đồng để hai bên. Dĩa đựng trái cây khá to được đặt trên một cái giá ba chân thật đẹp. Hai bên là hai bình bông để cúng. Tủ thờ phía trước chạm trổ, cửa mở ở hai bên hông dùng để chứa những vật trang trọng quý giá. Ngày lễ hay Tết bàn thờ rực rỡ hoa trái, hương đèn.
Nhà người miền trung khác hẳn, vị trí bàn thờ cũng ở giữa nhà nhưng được được che bằng một tấm màn ngăn cách. Phía trước đặt một bộ bàn ghế dài dùng để tiếp khách. Chỉ trong những ngày kỵ giỗ tấm màn mới được kéo ra để gia đình làm lễ. Bàn thờ hơi thấp được đặt phía trong với nhiều bát hương đặt cao thấp khác nhau theo thứ tự vai vế gia phả trong gia đình. Bàn thờ miền Nam chỉ có một bát hương để cắm nhang, bàn thờ miền Trung có rất nhiều bát hương nên trông có vẻ âm u và hơi …dễ sợ.
 
Tôi vén màn đi vào và đốt hương. Không biết bát hương nào là của ông bà ngoại. Thôi thì cắm hết và …thật vô duyên không biết phải khấn gì với ai, tên họ gì. Tôi hồi hộp và lúng túng chỉ biết niệm lâm râm Nam Mô A Di Đà Phật.
 
Mẹ chồng tôi giới thiệu tôi chào Mợ Tuấn. Mợ thấp người, khắc khổ và nhìn rất lam lũ. Hai người đàn bà có chồng ở hai phía Quốc – Cộng chào nhau. Mợ Tuấn là một người phụ nữ xứng đáng được mẹ chồng tôi trân trọng. Mặc dù cậu là con trai độc nhất trong gia đình được cha mẹ và các chị thương yêu bảo bọc, nhưng cậu bỏ tất cả gia nhập hàng ngũ kháng chiến chống Pháp lúc mợ vừa cấn bầu đứa con trai đầu lòng. Mợ ở nhà làm ruộng, phụng dưỡng cha mẹ chồng cho đến ngày ông bà ngoại chồng tôi mất. Con trai mợ hiện giờ đã cưới vợ sắp sửa sinh con thì được tin chồng vẫn còn sống và chuẩn bị trở về đoàn tụ. Mợ vui vẻ tươi cười với những tin vui chiến thắng. Ngồi nghe mợ nói chuyện, niềm vui chờ sum họp với chồng, tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận của mình. Đây cũng là gia đình nhưng người phụ nữ trước mặt chờ tin vui. Tôi và chồng là những người đối lập sẽ nhận những bất trắc, trả thù vì  mình là Ngụy.
 
Gia đình thứ hai tôi đến để đốt hương và ra mắt là nhà của chú Minh, chú họ của chồng tôi. Ông cố chồng sinh được hai người con trai. Ba chồng tôi là con nối dõi của người anh, chú Minh là con nối dõi người em. Nghe thì xa nhưng với gia phả trong họ tộc thì rất gần. Vì cha chồng tôi và hiện giờ chồng tôi đang là trưởng tộc. Người chú họ này cũng bỏ nhà đi kháng chiến, người vợ mới cưới phải ở nhà phụng dưỡng cha mẹ chồng và cũng sinh được một con trai độc nhất. Điều khác giữa mợ Tuấn và thím Minh là mẹ chú Minh vẫn còn sống nhưng hai mắt đã mờ. Con dâu của thím Minh vừa sinh đôi hai đứa cháu trai cực kỳ kháu khỉnh dễ thương. Bà cố đang đong đưa hai cái nôi mà người ở đây gọi là dứng. Đó là cái nôi trẻ con nhưng có bốn sợi dây được móc lên cao, muốn ru người ta nắm bốn sợi dây và lắc. Nghe tiếng má chồng tôi, mụ nghiêng người lắng nghe:
– Mụ Thi về khi mô rứa? Có vợ thằng Trai về khôn?
Tôi lên tiếng chào và bước tới nắm tay mụ. Bàn tay nhăn nheo của những người già lao động quanh năm. Mụ chỉ bàn thờ cho mẹ con tôi vào thắp hương và báo tin chú Minh đã liên lạc nhưng chưa về đến nhà. Tôi ngồi nhìn hai thằng bé, cưng quá là cưng với gương mặt bụ bẫm. Mẹ chồng tôi còn mê chúng hơn vì tôi chỉ sinh được con gái, còn đây là hai đứa cháu trai.
Quan niệm ” Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đúng vô cùng ở những gia đình này. Con trai cưới vợ đẻ con, con dâu mặc dù không có chồng bên cạnh vẫn chăm sóc cha mẹ chồng, nuôi con duy trì huyết mạch nối dõi tông đường.
Những người  như mợ Tuấn, thím Minh hay mẹ chồng tôi là những người đàn bà điển hình trong xã hội VN. Khi đã lấy chồng họ sống và hy sinh cả đời cho gia đình nhà chồng. Đối với họ chăm sóc mồ mả gia nương nhà chồng, đẻ con trai và duy trì nòi giống là nhiệm vụ mà họ phải tuyệt đối làm tròn.
Vì gia đình bên chồng tôi chuyên về nghề mộc, nên dựng lại căn nhà với đầy đủ vật liệu là chuyện dễ dàng. Chỉ một tuần lễ trên nền nhà bỏ hoang ngôi nhà tôi đã được thành hình. Dựng lại căn nhà xong, chưa kịp xếp đặt mọi thứ,  chồng tôi được lệnh khăn gói đi học tập cải tạo. Từ đó không có tin tức, không thấy trở về để biết mặt và chào hỏi hai người thân cách mạng đã kêu gọi anh về đây: “Không răng mô, về làng  có bầy choa lo”.
 
Chú Minh về làng trước, chú ra dáng là một bộ đội Bác Hồ. Chú không nói về cấp bậc trong quân đội nhưng để trả lời cho câu hỏi vì sao mấy chục năm chú không liên lạc với gia đình thì thím Minh được nghe sự thật đau lòng: “Chú đã lập gia đình với một nữ đồng chí bộ đội và lễ tuyên bố được đảng đứng ra tổ chức”
Chú Minh về thăm mẹ, thăm gia đình rồi vội vã về lại Bắc. Chú không thể can thiệp hay giúp đỡ gì thằng cháu sĩ quan Ngụy đang không biết được giam giữ ở đâu. Hành trang chú mang về Bắc là một số vật dụng của gia đình tôi khi chú ỉ ôi với mẹ chồng tôi: “Mụ về đây không có điện thì để lại làm gì, mụ cho lại các cháu của Mụ ngoài ấy.”
 
Từ lúc chú Minh về rồi đi, thím Minh như một người khác, thím gầy rạc đi trông thấy. Sự uất ức oán hận khiến người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó thay đổi. Chỉ cần ai đến nhà, hỏi thăm chú Minh thì cơn giận trong thím trỗi dậy, sự ghen tức khiến thím nói những điều không tốt về người chồng thím từng tôn trọng. Người mẹ chồng tội nghiệp của Thím không thể làm gì hơn chỉ biết khóc và chịu đựng những cơn giận dữ của con dâu. Gia đình ngày trước sống bình yên hạnh phúc bao nhiêu bây giờ chìm đắm trong bầu không khí oán hờn thiếu đi sức sống.
….
 
Rồi cậu Tuấn cũng về làng. Người con trai sinh ra cậu chưa một lần gặp mặt giống cậu như khuôn đúc. Hai cha con ôm nhau mừng rỡ. Mợ Tuấn được chồng chìu chuộng hết lòng. Mợ sống những ngày hạnh phúc nhất sau mấy chục năm vò võ nhớ mong. Mợ trẻ ra, tươi tắn và chăm chút bản thân hơn. Tôi đã thấy nụ cười và ánh mắt rạng ngời của mợ mà thật thương cho thân phận đàn bà. Mẹ chồng tôi và các người chị của cậu Tuấn dành cho cậu những đón tiếp yêu thương và long trọng nhất. Người em trai quý tử của gia đình đã trở về, chức lớn trong chế độ mới làm họ thấy mình hạnh phúc hẳn ra. Rồi thì những ngày về thăm quê cũng hết, như bong bóng lên cao sẽ vỡ, cậu Tuấn trước khi về lại miền Bắc, thú nhận với các chị mình đã có một gia đình ấm êm với ba đứa con đã trưởng thành cả trai lẫn gái. Cậu chỉ về đây để thăm còn gia đình chính thức đang ở ngoài kia.
 
Ôi những người đàn ông bội bạc đã làm tan nát trái tim của những người vợ thủy chung son sắt. Mợ Tuấn ngất xỉu khi nghe sự thật. Mợ không hung hăng hờn giận như thím Minh, mợ chỉ khóc và lặng lẽ sống trong câm nín tủi thân. Mẹ chồng tôi và các dì, dượng không biết phải nói gì. Sự thật bây giờ cũng không thể làm gì khác. Những đứa cháu dù sao cũng ruột thịt, mấy chục năm xa nhà cậu cũng phải có người chăm sóc. Và thế các mụ đồng ý chấp nhận gia đình bên kia, cậu về tay không nhưng khi cậu đi ê hề là quà cáp các mụ gửi về cho em dâu, cho cháu. Cậu Tuấn thành công đại thành công.
 
Khi mẹ chồng tôi nhắc đến đứa con trai tội nghiệp không biết bây giờ ra thế nào. Cậu Tuấn khuyên mẹ chồng tôi nên chờ đợi. Những người có tội với nhân dân phải nhận hình phạt. Nếu học tập tốt, thông suốt đường lối cách mang sẽ được khoan hồng về sớm.
 
Từ ngày cậu Tuấn ra Bắc lại, mợ Tuấn và các chị bên chồng không còn khắng khít như xưa. Đối với mợ, các chị chồng chấp nhận bên kia là không công bằng với mợ.  Những gì mợ đã cống hiến cho gia đình coi như không còn giá trị. Gần như cả cuộc đời của mợ đã chờ đợi hoang uổng. Bây giờ mợ đã thật sự mất chồng, chỉ toàn tâm toàn ý lo cho con trai và các cháu.
Hòa bình đã trở về trên mảnh đất chịu nhiều thương tổn của chiến tranh. Người lính của hai bên đã rời xa chiến trường. Người vợ của phe  thắng cuộc cũng như bên thua được gì và mất gì? Như Mợ Tuấn hay thím Minh đoàn tụ với chồng trong u uất, oán hờn. Như tôi chia ly chồng trong nước mắt. Bao nhiêu bi ai đều đè nặng trên đôi vai bé nhỏ của người phụ nữ VN.
Chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt nhưng những dư chấn cho cuộc chiến ý thức hệ mãi mãi vẫn còn. Tôi đã sống trọn vẹn những ngày tháng vất vả gian lao chờ chồng  trong chế độ mới. Những nhân vật chính tôi kể trên đây đều là thật và đã thành những người muôn năm cũ. Không ai đúng hoặc sai hoàn toàn. Mỗi người đều bị ràng buộc bởi vòng xoay của chiến tranh ý thức hệ và vô thường trong cuộc sống.
 
Đàn bà chúng tôi luôn luôn là nạn nhân trong cuộc chiến. Người đàn ông không thế nào hiểu được sự kiên trì chịu đựng của phụ nữ khi  hy sinh cho người mình yêu thương. Trái tim phụ nữ cũng bằng thịt nhưng sự dũng cảm nhiều khi sắt đá cũng phải chịu thua.
Nguyễn thị Thêm
29/4/2023
NHỚ  SÀI-GÒN 
                        Đình Duy Phương 
Tiếng ai than thở nhớ Sài-Gòn
Thổn thức lòng tôi, ôi héo hon 
Phố cũ người xưa dường đã mất 
Sài-Gòn ẩn hiện bóng vàng son.


Saigon tôi, dáng hình mơ mộng 
Đẹp não nùng, hòn ngọc Viễn-Đông
Bão táp phong ba bao thế hệ 
Qua lần mài dũa ngọc càng trong .


Tôi vẫn nhớ sân rường phượng vĩ
Hè về hoa phượng đỏ đường đi. 
Ngôi nhà Thờ kiến trúc uy nghi
Chùa lợp mái cong cong tuyệt mỹ.


Catinat, đường Tự Do phơi phới 
Khách nước ngoài thăm viếng tới lui
Khu Chợ Bến Thành bốn cửa lớn
Đông Tây Nam Bắc gặp nhau cười .


Đường Nguyễn Huệ hoa xuân rực rỡ
Mai vàng Thủ Đức rợp trời thơ 
Trái cây dưới tỉnh về nườm nượp 
Nhớ lại ngày Xuân, tưởng giấc mơ .


Người tượng đá rơi dòng lệ nóng !
Nhớ Sài-Gòn nhớ cả non sông 
Sóng trùng duơng nổi dậy trong lòng
Sài-Gòn hỡi Em còn đó không ?


Đình Duy Phương 
California 2004
DỆT NỐT VẦN THƠ 
Anh ạ, tháng ngày mau quá nhỉ 
Giờ này nơi ấy có mưa không 
Có thời gian đọng dòng bi lụy 
Cho em giữ mộng chí tang bồng .

Dệt nốt vần thơ kẻo gió mong 
Canh khuya giá lạnh ngỡ đêm Đông 
Ngoài sân cây lá khua nghiêng ngả
Mưa xuống tuôn dòng, gió chuyển giông …
Có phải người đang mãi đợi trông 
Hồn thơ mở lối tới non sông 
Bao mùa chinh chiến qua ngàn dặm 
Ngọn gió giao duyên kết chữ đồng.

Buổi sáng ánh dương hồng nắng đẹp 
Chiều hoàng hôn xuống tím màn đêm 
Anh-linh Chiến Sĩ sầu vương vấn 
Chẳng biết bây giờ có nhớ tên  

Bia đá ngàn năm còn đứng đợi
Hỏi người  giữ được đến trăm năm
Tình thơ dệt nốt nghe vời vợi
Khúc nhạc ru hồn anh ghé thăm.

Đình Duy Phương 
USA.  April, 2023
Kể Chuyện Tháng Tư

Tháng tư buồn muốn khóc
Ký ức chợt dâng đầy
Sài Gòn niềm thương nhớ
Nỗi buồn ngày chia tay.
 
Tiếng đời nghe rất lạ
Lời ai oán mọi miền
Cộng sản vừa chiếm mất
Hết tự do nhân quyền.
 
Mùi thuốc lào khét lẹt
Hàm răng hô mỏ cầy
Cái nón cối ngồi xổm
Nói toàn chuyện trên mây.
 
Chủ nghĩa là không tưởng
Cướp bóc là thực hành
Đổi tiền là chính sách
Ba lần cướp tung hoành.
 
Giải phóng rồi mới biết
Đảng bán nước hại dân
Gian manh đầy tham vọng
Tư bản đỏ vong thân.
 
Lòng dân đầy oán hận
Cộng cuồn muốn cầu vinh
Đốt dân đen trên lửa
Dối trời để mưu sinh.
 
Bốn mươi tám năm mất
Nam Bắc còn chưa hoà
Loạn kiêu binh vẫn thế
Quê hương mắt lệ nhoà.
 
Thái bình dương mây trắng
Nhìn cố quốc phân ly
Quốc, Cộng chưa phân định
Lòng dân còn hoài nghi.
 
Tế Luân
Tháng tư buồn
04-26-23
 
THÁNG TƯ BUỒN
Trong no ấm mà nằm gai nếm mật
Hưởng thanh bình ngỡ kề cận binh đao
Bởi vì ai đã phản bội đồng bào
Nối giáo cho giặc tràn vào vây hãm .

Trời Tháng Tư chưa phai màu ảm đạm
Khí oan khiên cao ngất khắp phương trời
Nơi quê hương hồn lạc phách chơi vơi
Trên biển cả sóng trùng khơi nức nở

Đất của mình tuồng như là mượn ở
Ruộng nương nhà bị phá vỡ từ lâu
Bao dân oan chịu giày xéo đớn đau
Từ Nam chí Bắc nghẹn ngào rên xiết.

Sau mấy mươi năm sao chưa hiểu biết
Vẫn tin tập đoàn bức tử dân ta
Công an quân đội ráng giữ San Hà 
Đừng cho kẻ ác được đà xâm lấn !

Tháng Tư buồn, vực dậy lòng hưng phấn
Thế nước nhà nghiêng ngửa cán bàn cân
Nền Tự Do Dân Chủ nặng vạn lần 
Toàn Dân gánh vác dự phần đuổi giặc .


Đình Duy Phương

California 2004.
Tưởng Niệm Ngày Sài Gòn Trong Cơn Hấp Hối, 29 Tháng Tư!

Tháng Tư Tưởng Nhớ 
Tháng tư luống những ngậm ngùi 
Tháng tư sao chẳng thấy vui trong lòng 
Tháng tư phận số long đong 
Tháng tư bạn đã hết mong trở về 

Tháng tư bôi xóa lời thề 
Tháng tư hoãn loạn cận kề nỗi đau
Tháng tư mình đã mất nhau 
Tháng tư trí nhớ in sâu chẳng mờ 

Tháng tư bóng phượng thôi mơ 
Tháng tư hụt hẫng thờ ơ cuộc đời 
Tháng tư nghẹn uất bao lời 
Tháng tư vận nước đổi dời điêu linh 

Tháng tư tướng lãnh hy sinh 
Tháng tư tự sát buông mình thiên thu 
Tháng tư lính phải tội tù 
Tháng tư hứng chịu đòn thù Bắc phương 

Tháng tư  bỏ lại quê hương 
Tháng tư suối lệ không lường bể dâu 
Tháng tư nay lại u sầu 
Tháng tư tưởng nhớ canh thâu khóc cười 

Tháng tư tờ lịch ba mươi 
Tháng tư nghĩ mãi chuyện người ra đi 

Minh Thúy Thành Nội 

   Tháng 4/30/2023
Phóng bút
LÊ MAI LĨNH 
 
Cảm ơn tháng Tư, cảm ơn ngày 30/4/1975!

 
Hẳn có người cho rằng tôi điên.
Hẳn có người cho rằng tôi lập dị, ưa nói những điều khác với người khác.
Không, tôi không điên. Nhưng nếu bảo tôi lập dị, thì có chút chút.
 
Nhưng, xin hãy bình tĩnh, xem và nghe tôi nói.
Rằng, không biết vì sao, làm sao, theo tôi, thì có thể có Thần-linh mách bảo.
Chợt đến trong lòng tôi, đầu óc tôi, một luận điểm, mang tính tiên tri.
 
Đó là : KHI TÊN CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN TIẾN VÀO SÀI GÒN, ĐÓ LÀ GIỜ BÁO HIỆU chủ nghĩa CS sụp đổ trên toàn thế giới!
 
Cũng là lúc giữa trưa Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, ngồi bên góc hè lát gạch bông, khóc, như cha chết mẹ chết, khi nhìn thấy… 
 
MỘT CHẾ ĐỘ MAN RỢ THẮNG MỘT CHẾ ĐỘ VĂN MINH.
Trong khi đó, nhà văn NGUYỄN QUANG LẬP, tung hô giữa Sài Gòn
MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG TÔI.  MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG TÔI!
 
Cùng lúc đó, thời điểm đó, nhà thơ,  nhà báo PHAN HUY, ngậm ngùi, rớt lệ!
 
Đến Saigon, tưởng say men chiến thắng 
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin 
Khi điêu ngoa, dối trá hiện nguyên hình 
Trước thành phố Tự do và Nhân bản
 
Trên đường về, đất trời như sụp đổ
Tôi thấy mình, tội lỗi với miền Nam
Tôi thấy mình, hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước 
 
Cũng nhà thơ này, PHAN HUY, trong một bài thơ khác.
SAU KHI MIỀN BẮC “GIẢI PHÓNG” MIỀN NAM, ÔNG BẬT KHÓC GIỮA LÒNG SAIGON:
 
CẢM TẠ MIỀN NAM 
Tác giả Phan Huy. 
 
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với Miền Nam, miền đất nước điêu linh
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.
 
Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
 
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ ngụy quyền
Áp bức, đọa đày, đói ăn, khát uống.
 
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước, con người, dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô
Giận đảng, giận đoàn, bao năm phỉnh gạt.
 
Sinh ra, lớn lên, sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
 
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mác Lê nin
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản.”
 
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi, người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu
Thân phận con người chẳng khác bèo dâu.
 
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do, dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
 
Cảm tạ Miền Nam soi đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không phải Các Mác và Lê Nin ngoại tộc.
 
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai phóng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
 
Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỉ
Dù không thành công cũng đã thành nhân.
 
Phan Huy
 
Ngày sau dó, SƯƠNG BIÊN THÙY tôi đã làm bài thơ tặng nhà thơ PHAN HUY, tác giả bài thơ CẢM TẠ MIỀN NAM
///////////////////////////////////////////////////////
Viết từ 5/4/2015
 
Cảm ơn bạn, đã cảm tạ miền Nam
Từ nửa vòng trái đất, tôi thương yêu bạn nhiều lắm
Tôi mừng bạn đã mở mắt, dẫu muộn còn hơn không
Nhưng chuyện nước non, có bao giờ là chậm
Chuyện lịch sử, không bao giờ tính tháng tính ngày
Lời cảm tạ miền Nam, bao giờ cũng mới.
 
Đã 40 năm, vì còn quá ít người, nói lời cảm tạ miền Nam
Nên đất nước hôm nay còn tang thương như thế 
 
40 năm qua, nếu có nhiều người, nói lời cảm tạ miền Nam
Sự thể đất nước mình chắc đổi khác.
 
Cảm tạ miền Nam, tung quả đấm vào mặt bạo quyền
Cảm tạ miền Nam, tung xích xiềng đứng dậy, vùng lên
Cảm tạ miền Nam, phá toang tù ngục, trên khắp mọi miền đất nước
Cảm tạ miền Nam, kéo sập những tượng đài của lũ bán nước, tay sai
Cảm tạ miền Nam, xuống đường hàng hàng lớp lớp
Cảm tạ miền Nam, phải tham gia đấu tranh dành lại Tự Do, Dân Chủ, quyền làm người.
 
Cảm tạ miền Nam, không chỉ là những lời cảm ơn suông
Cảm tạ miền Nam, bằng những hành động cụ thể sáng ngời
Hà Nội đã nổi giận, hãy góp vào sức nổi giận của Hà nội
 
Công nhân xuống đường đình công biểu tình, cảm tạ miền Nam, là phải tuyến đầu xung phong.
Cảm tạ miền Nam, là luôn luôn trong tư thế sẵn sàng nhập cuộc.
Dân oan xuống đường, cảm tạ miền Nam, sẵn sàng tiếp tế bánh mì
Thanh niên, sinh viên xuống đường, cảm tạ miền Nam, sẵn sàng nước uống
Cảm tạ miền Nam thanh, thiếu nữ sẵn sàng những đóa hồng tặng bộ đội, công an
Cho những nắm đấm, dùi cui nhẹ bớt đi trên mặt, thân người tranh đấu.
 
Thay mặt cảm tạ miền Nan, tôi cảm tạ Hà Nội nổi giận làm nên Cách Mạng Xanh vào mùa xuân qua và những mùa xuân tới
Hãy tới luôn nghe Hà Nội.
Chế độ mới biết sợ, phải cho chúng sợ tới chết luôn.
 
Thay mặt cảm tạ miền Nam, tôi cảm tạ 90.000 công nhân diễn tập xuống đường biểu tình
Cuộc diễn tập bước đầu đã hoàn chỉnh
Hãy chuẩn bị cho những lần chiến đấu sau.
Hãy tới luôn nghe Sài Gòn, Bình Dương, An Giang.
 
Bão đã nổi
Lửa đã cháy
Cuồng phong đã bắt đầu
Nộ khí nhân dân đã cất tiếng thét
Hỡi những bước chân xuống đường
Hỡi những cánh tay đã sẵn sàng tung nắm đấm
Tôi thay mặt người cảm tạ miền Nam, xin cảm tạ hồn thiêng sông núi
Cảm tạ những hồn Việt Nam bất khuất. 
 
Sương Biên Thùy
5/4/2015
 
Không những chỉ một Dương Thu Hương,  Nguyễn Quang Lập, Phan Huy, mà ngay cả ca sĩ ÁI VÂN, con cưng của bác và Đảng, cũng ngậm ngùi rưng rưng nhỏ lệ, những ngày đầu vào Sài Gòn, lang thang phố xá, mua sắm những mặt hàng của chế độ tư bản giữa miền Nam thịnh vượng. 
Không những chỉ ngần ấy giọt nước mắt , mà là, đó là những giọt nước mắt của những trái tim nghệ sĩ nhạy cảm, đại  điện cho những triệu người trước một Hòn Ngọc Viễn Đông tạm thời đổi chủ.
Chỉ tạm thời thôi nghé, mọi người ơi!
 
Lịch sử sẽ sang trang, tất yếu lịch sử sẽ sang trang, khi cái ác, dối trá, không bao giờ là vĩnh viễn.
 
Chào tháng tư, chào ngày 30/4/1975 , là có lý do của nó, của những chu kỳ lịch sử.
Tôi sẽ nói tiếp.
Khi tôi nói, tên CS đầu tiên bước vào SAIGON, là tôi nói chung CS, có thể là Liên Xô, Hung, Tiệp Khắc , Ba Lan. Trung Cộng…
Như thế cũng có nghĩa SỰ THẬT MIỀN NAM tự do, thịnh vượng, lan truyền tới Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, tới Đông Âu.
Như thế cũng có nghĩa, phơi bày SỰ DỐI TRÁ, cũng vậy, lan tỏa  tới nhân dân các nước đó.
Sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu, không bắt nguồn từ SỰ THẬT miền Nam, đó sao.
Nhưng Việt Nam sao chưa sụp đổ chế độ CS?
Bắt nguồn từ hai nguyên nhân:
1/ Sự che chở, lệ thuộc vào Trung Cộng quá mạnh.
2/ Nhân dân VN chưa thoát ra nỗi sợ, sau 1.000 năm Tàu và 100 năm Pháp, nhất là 21 năm CS Hà nội và 58 năm CS cả nước.
 
Thế nên, dù chế độ CS hiện nay là một căn nhà xiêu vẹo, mối mọt mục rã, nhưng chưa có bàn tay bão nổi của nhân dân, chưa có cơn nộ khí xung thiên của nhân dân tác động, nên nó vẫn còn trụ vững, cho tới bao giờ nhân dân ném nỗi sợ sau lưng và tiến lên phía trước, hàng hàng, lớp lớp.
Đó là lúc chế độ CÁO CHUNG.
Nhưng cuối cùng, nó cũng phải cáo chung.
 
Sức mạnh của CS là sự DỐI TRÁ và BẠO LỰC.
Hay nói cách khác , DỐI TRÁ và BẠO LỰC là CHIẾC ĐŨA THẦN của PHÙ THUỶ CS.
Phù thủy mất chiếc đũa THẦN là trắng tay.
Hay nói cách khác, DỐI TRÁ là DƯỠNG KHÍ nuôi người CS. 
Nhưng khi không còn DỐI TRÁ được, là mất nguồn DƯỠNG KHÍ, tất yếu phải tiêu vong.
DỐI TRÁ và BẠO LỰC là cặp SONG SINH DÍNH LIỀN NHAU, là quái thai.
Khi DỐI TRÁ không còn, thì  bạo lực cũng không còn tác dụng, bị vô hiệu.
Chế độ CS hiện nay, không còn chiếc ĐŨA THẦN, dối trá và bạo lực.
BẠO LỰC chỉ có kết quả, khi người thi hành bạo lực không sợ MÁU và không bao giờ đặt ra những câu hỏi tại sao. GIẾT, giết cho ai, giết vì mục đích gì?
Nhưng nay, người thi hành bạo lực đã biết đặt ra những câu hỏi tại sao giết, giết cho ai và biết sợ máu.
Và phía nạn nhân của bạo lực, cũng đã không còn sợ chết.
Khi nạn nhân của bạo lực không còn sợ chết, thì bạo lực đã mất giá trị của sự ngăn đe và bị mất hiệu nghiệm.
Hình ảnh những người đàn bà lưng trần với hàng chữ HÃY GIẾT TÔI ĐI RỒI CƯỚP ĐẤT, CƯỚP NHÀ đã nói lên điều gì.
Dấu hiệu sự sụp đổ của chế độ, khi DỐI TRÁ và BẠO LỰC không còn tồn tại.
 
Trước năm 1975, khi sang thăm VN và thị sát chiến trường, tướng độc nhãn Do Thái, MOSHE DAYAN,  đã đưa ra nhận định: “MUỐN THẮNG CỘNG SẢN HÃY CHO CS THẮNG.”
 
Ngày 30/4/1975, cho CS thắng để nó tiêu vong Vĩnh viễn.
Ngày nay, chúng ta đã thấy rõ điều đó, CỘNG SẢN SẼ TIÊU VONG VĨNH VIỄN.
 
Ngày 30/4/1975, chẳng phải miền BẮC THẮNG, MIỀN NAM THUA, mà đó là thời điểm của những CHU KỲ LỊCH SỬ.
 
CHU KỲ CỦA MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ của đất nước.
CHU KỲ CỦA SỰ THỊNH SUY CHẾ ĐỘ
CHU KỲ TỒN VONG CỦA MỘT ĐẢNG PHÁI chính trị.
 
Ra đi, di tản, không phải chúng ta chạy trốn.
Đó là  một sắp xếp của thần linh, tiền nhân 
Một sự gởi gắm, để bảo toàn giống nòi.
 
Thử hỏi, có dân tộc nào, đã có mặt, trên toàn thế giới.
Thử hỏi, có dân tộc nào, nhiều thế hệ con cháu, được đi DU HỌC miễn phí như con cháu RỒNG TIÊN.
Thử hỏi, có dân tộc nào, có được một tiềm năng CHẤT XÁM, cho một dựng xây nước nhà, vào thời HẬU CS?
VIỆT NAM MUÔN NĂM!
 
Hãy cảm ơn tháng Tư.
Hãy cảm ơn ngày 30/4/1975.
 
Hãy quên đi những ngày tháng của 48 năm xưa, ra đi là tạm thời, ngày về Vinh Quang là điều có thật.
Hãy cười vui,  lạc quan, về một tương lai VN, khi CS cáo chung,  tất yếu phải cáo chung.
Vấn đề của chúng ta bây giờ là ngồi lại, tay trong tay, lòng cùng lòng, cho một hồi hương, vạm vỡ, của những bàn tay xây dựng, của những trái tim hòa ái và những khối óc không hận thù.
 
Đã rõ ràng, ai thắng ai.
Đã rõ ràng, phía, phe nào, là chính nghĩa.
Đã rõ ràng, 48 năm qua, lòng dân ngưỡng vọng ai, thương yêu ai và thù hận ai.
 
Mùa Xuân nào ta về?
Bây giờ, đã có câu trả lời.
MÙA XUÂN TỚI, TA VỀ.
Chắc nụi!
 
Cảm ơn tháng Tư, cảm ơn ngày 30/4/1975, chỉ là giả định cho tựa đề bài viết.
Dưới đây, mới là tựa đề chính xác cho bài viết, như một THÔNG ĐIỆP:
 
CẢM ƠN THÁNG TƯ, 
CẢM ƠN NGÀY 30/4/1975,
THỜI ĐIỂM KHỞI ĐẦU CHO CHIẾN THẮNG CHÓI LỌI CỦA DÂN TỘC VIỆT.
 
LÊ MAI LĨNH

Ba nhà, văn, thơ, báo.
82 niên 
26/3/2023.
Pittsburgh – USA.
VƯỢT BIÊN
Câu chuyện xẩy ra đã mấy chục năm – tưởng đã quên nhưng không sao quên được nên tôi đành viết ra giấy may ra chia xẻ đựợc những gì cứ thường hiện về trong tâm trí tôi khiến tôi rơi lệ .
***Vâng ! Hôm ấy là một buổi trưa ngày chủ nhật! Trời mưa cũng tạnh rồi chỉ còn lấm tấm ít hạt và gió se se …- Cổng khép hờ vì nhà còn gì đâu mà sợ trộm cắp . Hai con tôi còn nhỏ chúng không  ngủ đang chơi “đánh gụ  “. Chúng chơi rất khéo tay . Thằng lớn – tên Q-  lại thua thằng nhỏ – tên Ph – chứ ! Lý do thằng lớn cháu sinh ra bị dùng máy hút – hút nên bị ảnh hưởng cái tay phải ( gọi là Late effected ).Thằng nhỏ thắng anh nó ba ván . Nó hét lên mừng qúa ! Khi con gụ bổ trúng đầu con gụ của anh nó đánh “Chát “.
* Tôi đang cố gà gà ngủ …vì mệt mỏi qúa nên nằm nhắm mắt thôi chứ ngủ gì nổi !- Thì nghe hai đứa bỏ gụ reo lên : “ A Dì Huy và chú Đăng ! “” Mẹ ơi ! Dì Huy ! “.
Tôi mở mắt ngồi dậy nhìn ra cổng : Hai vợ chồng Huy và con Bé “Bo Bo “ bế trên tay nữa !
Tôi ra cửa đón vào cũng mừng và lo vì : “ Không còn gì đãi …- Mấy củ khoai lang luộc ăn trưa hết rồi ! “.
Bàn ghế cũng chẳng còn vì bán để đong gạo rồi .Chỉ còn hai cái bàn dài ghế dài đóng bằng gỗ thùng bia …để tôi dạy học trò kiếm thêm tiền chút đỉnh .
Tôi chỉ ghế :” Mời hai em ngồi đỡ … bàn ghế cũ chị bán hết để đong gạo mất rồi ! “ .
Con bé Bo Bo (tên nó đẹp nhưng kỷ niệm ăn bo bo hoài  nên gọi vậy ! Nó bị bế trên tay từ nhà đi xe bus tới , nó mỏi nên nuỗi ra đòi lê xuống sàn nhà . Tôi lâu không gặp nên nó lạ cứ nhìn nhìn .
Tôi  hỏi :” Sao mưa gió thế này mà đến chơi  . Cháu còn nhỏ phải cẩn thận kẻo cảm “.
Em tôi – Huy cười cười … Cũng đi chơi hết mọi nhà chị ạ . Rồi nhìn quanh … Huy bảo : “ Nhà chị còn gạo ăn không ?! Em còn bắp say có xách theo để em đưa chị hết ! Tôi lại bảo: “ Cho chị hết lấy gì các em ăn ?! “. Huy nhìn Đăng cười cười …- Tôi lại nghĩ bên nhà bố ruột Đăng còn tiền , vàng để giành nên không ăn độn .Trước khi ra về Huy mới chịu nói thật :” Ngày mai tụi em đi vượt biên . Theo diện bán chính thức . Mỗi người 12 cây . Do bà vợ CHỦ TỊCH tỉnh Phú Quốc đứng ra Tổ Chức . Đi rất an toàn! Em ở lại cũng chết vì Khi Việt Cộng vào thì em đang có bàu . Khi sanh con : Việt Cộng chỉ cho nghỉ có 15 ngày còn phải đứng giúp mổ – nay chân em gần như bịt liệt do gai cột sống ! . Đấy chị thấy “ Xưởng Đẻ “ Từ Dũ bây giờ sanh đẻ không được nghỉ ăn lương đủ ba tháng như hồi VNCH đâu !
– Rồi … trong vòng ba ngày có tin từ ông Bố của Đăng- tên là cụ Hân –  tới báo cho bố mẹ tôi : Chúng nó đi không có vàng chồng nhưng tôi là Chân Rết đi tìm người đi . Nay có một cặp vợ chồng đau nặng bỏ cuộc đợi chuyến khác nên tôi cho hai vợ chồng Đăng Huy đi thế chỗ . Có thêm một con bé còn bế trên tay thì họ đồng ý miễn . Nhưng khi ra đến Phú Quốc thì Mụ Vợ Chủ Tịch không chịu đòi nạp thêm 1 cây . Tôi chạy điên đảo mới vừa nạp xong . Tôi lên báo Ông Bà là tàu đã ra khơi ! Gần tới Bi Đông thi sẽ sang tàu khác vào Bi Đông “.
Cả nhà tôi đều vui mừng khi nghe ông bố Đăng- cụ Hân  báo tin . Nhưng bố mẹ  tôi vẫn thương nhớ con xa …mà ngậm ngùi .
Chờ tin tiếp …
Không nhớ rõ mấy tuần sau …có tin về – Ông cụ Hân bố Đăng mang lên :
“ Chúng con đã vào đảo Bi Đông . Hiện phải chờ giải quyết cho đi nước thứ ba ! “.
– Họ hàng cũng nghe tin Huy đi vượt biên …được an an toàn .
Chỗ làm , bạn thân của Huy – mấy cô Nữ Hộ Sinh bạn ở nhà thương T ừ Dũ  cũng tới … nghe nói Huy đang cùng chồng con đang ở đảo Bi Đông . Họ đền thở phào vui vẻ chia xẻ với bố mẹ tôi .
– Rồi …sau mấy tháng dài được tin từ Úc là vợ chồng Huy và con bé Bo Bo  được cho định cư tại một tiểu bang Nam nước Úc .
  * Sau này gặp , cả nhà cả họ tôi ai cũng nghe chuyện kể từ Bi Đông mà Kinh hồn ….
– Số là như thế này ….
Khi vào được Bi đông rồi thì …” Đầu trọc “ nghĩa là mình không có người ở nước thứ ba nhận cho vào . Nên tụi Bi Đông rất bực cứ hối . Tin Lành cũng không , Thiên  Chúa cũng không . Đó là Hai Đạo  : Làm phước nhận cho vào Mỹ hoặc Úc . Mà Huy lại không ở hai đạo đó !
Thế là …một đêm đang nằm ngủ , Bi Đông cho người  gọi dậy bảo : Dậy xuống Tàu cho đi nước Thứ Ba ! “. Mừng qúa hỏi nước nào ?!- Bọn này bảo : “ Cứ đi sẽ biết !”.
Mấy chục người nghe theo . Bọn Bi Đông cấp cho mỗi người 4 lít nước-  Thức ăn khô …- Rồi bảo xuống một con tàu . Thuyền trưởng là một người thủy thủ VNCH cũng trong số vượt biên  . Khi tàu đi thì lạ sao có 2 cái cano của Bi Đông đi ép hai bên mũi tàu .Tụi Bi Đông bảo 2 cano dẫn đường – Sợ lạc !.
Mọi người sao như có linh tính bị đánh lừa . Nên bảo nhau :” Đạo ai thì người đó đọc kinh theo đạo đó để cầu xin”.
Đi được ít giờ đồng hồ thì … Anh Thuyền trưởng ngừng lại báo cho tất cả mọi ngưới là tàu chúng ta đang bị ép về Việt Nam . Vì hướng đi là tàu sẽ về Cà Mau ! Bây gìờ tôi muốn hỏi bà con muốn tàu Stop lại hay đi theo hai  cano đang ép đây ?!
Tất cả đều trả lời thuyền trưởng :” Stop lại chờ tàu nào đi qua thì cứu ! .
Hai cano bực , chúng cứ cho đầu cacno húc vào hông tàu này !Tàu bị thủng lỗ , nước bỉển dò vào . Thuyền trưởng bèn  bắn pháo hiệu cầu cứu một tàu ở xa !. Và bảo tất cả người khoẻ hãy múc nước đổ ra biển kẻo tàu chìm . Bão thì tự nhiên nổi lên rất nhanh đang ập tới !
*  Con tàu từ xa đã nhìn thấy phát súng báo hiệu cầu cứu  – kịp chạy tới c ứu . Nhưng họ bảo : “ Tàu chúng tôi nhỏ không chở hết để chúng tôi gọi một tàu bạn lớn cứu ! “ “ Tạm thời chúng tôi cho tàu chắn gió bão cho tàu các người kẻo sóng đánh chìm ! Đồng thời cứ tát nước ra ! “
– May phước ! Tàu cứu đã đến kịp – Nếu không chắc tàu này chìm vì những người tát nước mồ hôi đổ như tắm và kiệt sức rồi .
* Vâng tàu lớn đếp kịp đó là tàu của nước Úc .
Họ bắc thang dây để chuyển người leo lên tàu họ . Gió bão đang to …Leo lên phải đu thật chắc ! Kẻo rớt xuống biển .
 
– Thế mà có sáu người vì vội vàng giành nhau đi trước mà rớt xuống biển !mất tích luôn
Cả tàu đã được đưa vào Nam n ước  Úc – tiểu bang Queen Ann .
Hai vợ chồng  em tôi nghĩ rằng nhờ tàu Úc vớt và các Sơ của Công Giáo giúp đỡ hết mình …từ chữa bệnh đến tìm việc làm … cho từ cây kim đến  thực phẩm nên cả hai vợ chồng ĐăngHuy đã xin theo đạo Chúa .
THƯ KHANH – Seattle-3/13/ 2023  ( Bút Ký tặng gia đình Em gái : Nguyễn Thị Huy cùng chồng là Đăng – con bé tên :  Bo Bo …- nhân tháng Tư Đen đang về trong kýức khôn nguôi )

****Truyện 2 ( thương kính về chị của chồng tôi : Chị HỒNG )“ĐI KINH TẾ MỚI “
Câu chuyện đau thương tôi xin kể bạn nghe nhé .
Đố ai đọc xong mà không rơi lệ !
Tiêu đề tôi phải đánh trong ngoặc kép – Vì Sự Thực chuyện không phải đi Kinh Tế Mới như nhiều người đã bị Cộng Sản đuổi đi vùng rừng núi non để họ chiếm mất nhà tại sài Gòn .
* Vâng chuyện như sau :
Vào một buổi nọ tôi đi chợ Hoà Hưng thì gặp chị H cũng đi chợ Hoà Hưng . Chị bảo : mai chị với cháu Khánh đi Kinh Tế Mới rồi . Mợ ghé vào nhà chị , chị cho mấy thứ mà dùng .
Tôi thật thà : “ Chị ơi , Cháu Khánh đi cải tạo về rồi – có đi cùng chị hay chỉ mình chị thôi ?! – Giá Hôm 28- 29 mà cháu từ Củ Chi về kịp thì cháu Hinh ( con rể chị phi công Trực Thăng ) đã đón trọn cả nhà ra tàu Mỹ đi sang Mỹ rồi .
Chị Hồng : “ Cháu về không kkịp – Nên bây giờ em của anh Trinh từ Bắc vào bảo lãnh cháu được cải tạo về sớm !
Chị nói xong ngậm ngùi rưng rưng nước mắt rồi vội trấn an – nên cười gượng …
* Tôi nửa nghi nửa tin nên nói chị : “ Nhà em thì chưa biết bao giờ về  vì nhà em là sĩ Quan ngành chiến tranh chính trị Không Quân , chuyên môn đi thuyết trình ở các không đoàn . Cộng sản chúng đánh giá : tôi nhà em nặng hơn các phi công nhiều .Nay nhà em mới nhắn về là :1- “ Em lên nhà chị Hồng nói cháu Khánh cho xin đôi giày và 2 cái quần kaki dài – Vì Khánh về không cần nữa , còn anh chắc còn lâu mới về và phải đi rừng làm lao động nặng .
2- Em ráng nói làm sao cho anh Tuyên ( Phan Lạc Tuyên ) tin anh và bảo lãnh cho anh về sớm  ! Không thì chắc anh bị chết trong tù qúa !
Tôi đã nói với chồng tôi là : “ Anh nhầm rồi : a- Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , Csản cho giải tán ngay trước khi Hội Nghị Paris rồi .
**PHan Lạc Tuyên đảo chánh Ông Ngô Đình Diệm ( năm 1-11- 1961 cùng nhóm Nguyễn Chánh Thi…
Nay Phan Lạc Tuyên còn lo thân chưa xong kìa .
Không phải như trường hợp cháu Khánh .
* Trở lại đoạn theo chị Hồng vào nhà chị :
thấy cháu Khánh đang loay hoay sọan các thứ để “Đi kinh Tế mới “.
– Tôi có nói về việc cái quần kaki và đôi giầy …- Nhưng Khánh trả lời : “ Trễ rồi :  Cháu lại cho một người bạn xin mất rồi !
Tôi đành nén giòng nước mắt . Và nói chị Hồng : “ Vậy chị đi KINH TẾ Mới làm ăn phát tài thì chị nhắn cho em đi với nhé ! Chứ không thì chết đói hết chị ơi ! Nhất là nhà em về- họ cũng không cho ở thành phố đâu !
Chị Hồng cũng hơi xúc động trả lời
“ Chị nhớ rồi ! “

Rồi sáng hôm sau : Tin xét đánh mang tai .
Bố chồng tôi báo tin :
Tàu của Mẹ con chị Hồng và cháu Khánh đi bị lật chìm ở cửa sông Nhà Bè ! ‘ “ Cả tàu mọi người chết hết ! Vì tàu chở nặng qúa mà cửa sông nước xoáy nên tàu bị lật !”
Ông cụ bố chồng tôi rủ tôi đi cùng để tìm xác !- Tay cụ cầm một cây sào đẻ bới xác
Ba bốn ngày liền , không tìm được – Vì tàu khoá chật khi mở máy chạy ra cửa biển .
-Chủ tàu là bà vợ Một chủ Tịch Phú Quốc – Tổ chức cho đi giá 12 cây vàng mỗi  người .
– Đành kéo tầu vào – mở cửa tàu ra = Hốt xác đưa về chôn Tập Thể ở cùng một hố tại Nghĩa Địa đô thành .Nghĩa địa này quay mặt ra cuối đường Lê văn duyệt gần Nhà Dây Thép Gió !( Gần khu Ông Tạ )- Khi đó Nghĩa địa chưa bị giải toả .
Rõ ràng là : Bọn Cộng Sản vơ vét bằng đủ cách ! Mà chuyện xảy ra như thế chúng có bị tù tội gì đâu .
Chị Hồng có mấy người con : Con trai+ Con dâu+ con gái+ con rể –  (phi công trực thăng) – tên là Hinh ) đã đi kịp nên sang Mỹ an toàn , làm ăn gửi tiền về cho  –
Không ngờ có Tiền :  “ Đi Kinh tế Mới “= mà như thế này !
Nay gần 30 tháng Tư đen – Nhớ lại chuyện đau thương – Xin kể lại để thấy Chuyện đau thương trong gia đình – sau ngày 30 tháng Tư Đen – 1975 !hầu như nhà nào cũng có , không ít thì nhiều – Ôi Miền Nam :
Cũng như một Nén Nhang xin cho  các Hương Linh mau đi Vãng Sanh.
THƯ KHANH – Seattle- 3/ 13/ 2023 .
NGÀY QUỐC HẬN
Khi Cộng Sản mừng ngày chiến thắng
Hoàn thành dã tâm Mặt trận xâm lăng miền nam
để ngơ ngáo, váo vênh, tự đắc
Nhờ ơn Nga Tàu đốc xúi, ép buộc
Người dân tôi thảng thốt khóc tháng tư đen, ngày quốc hận
Khổ đau chồng chất miền nam cùng miền bắc
Xót xa, điêu tàn, mất mát
Là ai hy sinh, chiến đấu cho ngoại bang
Ai đem nồi da xáo thịt đồng bào
Hảnh diện làm nô lệ, chư hầu
Miền nam có bị đô hộ đâu mà diệt Ngụy cứu nước
Người miền nam sống độc lập, tự do, no cơm, ấm áo
Không gì quý hơn độc lập, tự do Thật Sự
Là độc lập không chư hầu , lệ thuộc
Cỏng rắn cắn gà nhà mà cho mà cho mình là chính trực
Miền nam người Việt yêu quê hương, tổ quốc
Theo gương tiền nhân quyết chống trả kẻ thù truyền kiếp
Phải tự vệ quyết bảo bọc dân lành vì chánh đạo
Tuyệt đối không cắt đất, dâng đảo
Lạy lục, van xin kẻ thù kề cận luôn hiếp đáp
Giết dân cả hai miền vì chút quyền thái thú đọc đảng cai trị, áp bức
Hãy nhìn bảy mươi năm qua dân được giải phóng mà càng bị bắt bớ , tù ngục
Thống nhất để càng khốn khó
Trai lao động khắp xứ người
Gái xả thân mọi nơi nước lạ
Đất nước lần hồi bị người ta làm chủ cả
Dân đói rách phải làm thuê, làm mướn cho mọi chủ nhân trên cả quê hương mình
Đảng Nô Cộng trơ tráo mỵ dân
Dân làm chủ mà đảng quản lý chủ.
Xích xiềng, áp bức, xiết cổ, bóp họng
Giết chẵng nương tay đồng bào ruột thịt
Sao không biết gục đầu xấu hổ
Thẹn với quê hương, nhục vong linh tiên tổ
Cuối tháng tư đen phủ phục
Sám hối ngày đại tang quốc nhục
Chương Hà
tháng 4- 2019
THƯƠNG TIẾC VIỆT NAM
Tháng 4 Lại Về Bao Tiếc Thương đất nước tôi bị xâm chiếm từ  30 Tháng 4 1975 

 Xin đi ngược về quá khứ. Với Hiệp đình Geneve ký ngày 20 thang 7 1954 . Nước Việt Nam bi chia đôi giữa vĩ tuyến 17.
Phía Bắc là của Cộng Sản.
Phía Nam là phần đất Tự Do.
Vào Năm 1956 toàn dân miền Nam có bầu cử Tổng thông hợp Hiến và hợp Pháp. Tổng thống Ngô Đình  Diệm đắc  cử và thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà.
Nhưng, Việt Cộng đã đem một số người rút ra Tập Kết về miền Bắc tiếp tục mưu đồ tiến cướp miền Nam. Việt Cộng gài người ở lại để âm mưu đánh phá và cướp luôn miền Nam.
 Trong lúc này miền Nam đang lo thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, một chính phủ chủ trương Từ Do và nâng cao đời sống người dân miền Nam trên moi  phương diện  của cuộc sống. 
 Từ đầu năm 1956 xã hội miền Nam phat  triển tốt đẹp về quản sự và dân sự.
Miền nam  thành lập chính quyền.  Hành  Chánh , kinh tế và giáo dục theo chính thể Cộng Hoa. Các trường Trưng Học và Đại Học được mô rộng. Nồng dân được cấp đất và nông cụ để mở rộng, khai thác ruộng vườn.
 Kinh tế  thương mại tu do.  Tiền bạc, Nông sản thu hoạch được là của người dân. Từ những thành phố nhỏ đến thủ đô Saigon dân chúng buôn bán sinh sống hoàn toàn tự do phát triển.
Tài sản riêng của người dân được tôn trọng.
Một đất nước gương mẫu cho Thê Giới Tự Do.

Việt Nam  Cộng Hoà là thành trì chống cộng tại Đồng Nam Á từ những năm 1955 đến 1975.
Trong lúc miền Nam lo cho đời sống dân chúng, thì miền Bắc mưu toan.
Từ năm 1957, Bộ Mặt lừa dối của CS núp dưới danh nghĩa Mặt Trần  Giải Phông Miền Nam, để đánh phá với chú tâm cướp luôn miền Nam.
Một điều đáng buồn là một số người trong đó có nhiều trí thức đã làm lạc theo Việt Cộng giúp đánh phá miền Nam trên moi mặt từ văn hoá đến quân sự.
Những cuộc đánh phá giết chóc trên đất Nam từ năm 1960 kéo dài thật nghiệt ngã. Bao nhiêu chiến sĩ Viết Nam Cộng Hoà và dân chúng đã hy sinh cùng với binh lính và sĩ quan Đồng Minh, nhất là Hoà Kỷ.
Xin được nói về  nhiều trận chiến anh đừng  như An Loc ,Huế , Đổi Charlie,   Co Thành  Quang Tri. vv .
Cuộc tàn sát của  CS  khi tấn  công  vào Huế năm 1968 dịp Tết Mậu Thân đã thảm sát trên năm ngan người và người dân đã bị chôn chung trong Nấm Mô Tập Thể.
Việt Công vừa đánh cướp đất vừa lửa  đối nhận dân và lừa dối Thế Giới.
Không tàn ác không lừa dối không phải là Cộng  Sản.
Sau gần 15 năm chiến tranh.
Kết quả đưa đến Hiệp Định Paris năm 1973.
 Kết quả là Mỹ ngừng viện trợ quân sự và Rút Quân khỏi Việt Nam.
Từ năm 1973 Mỹ ngừng viện trợ quân sự  cho Viết Nam Cộng Hoà.
VNCH Không còn súng đạn. không xăng. quân đội VNCH
van tiếp tục chiến đấu với những vu khi còn lại .
Trong 2 năm  1973-1975, những cuộc đánh phá tàn bạo vẫn tiếp diễn.
Rồi ngày 30 tháng 4- 1975. Đai Phật Thanh đã phat ra bài White Christimas 
như là một ám hiệu cho Quân đổi Hoa Ky trên đất Việt Nam để rút đi.
Những người Quản nhân và Dân Chính  của Mỹ cuối cùng đã rút đi bởi những chiếc trực thang sau cùng  trên Nốc Toà Đai Sử Hoa Kỳ.
Buổi sáng 30 tháng 4 1975 .Đại Phát Thanh  Phát ra lời của  Đại tướng Dương Văn  Minh  đại diện Chính Phú miền Nam đã tuyên bố Đầu Hàng Vô Điều Kiên.
Nhưng, giữa những chiến binh đã buông súng.
Tôi,, người viết và là nhân chứng của ngày 30 tháng 4 lịch sử.
Tôi vẫn nghe những tiếng Đai Bác vang lên từ Vùng Bốn Chiến thuật, Từ vòng đai nơi  rộng của Thu Đố Saigon. Những tiếng súng  cang trường  và Tu Sát của nhiều tưởng lãnh và nhiều sĩ quan , binh sĩ  VNCH.
Xin nghiêng mình ghi ơn các chiến sĩ VNCH.
Các anh không thua trận chiến.
Các Anh là những người chiến đấu cho Tự Do  đã bị bắt buộc buông súng.
Thế hệ người văn minh trung trực đã thua đoàn người rừng rú, hèn hạ, tàn ác. Một đám  người CS, chuyện lừa đảo.
Trò lừa đảo và tàn ác của VC đã áp lên toàn miền nam.
Các anh sĩ quan VNCH  bị lừa dối đi Học Tập Cai Tao, đem theo thức ăn trong 10  ngày .
VC nói láo  một cách hèn hạ.  Một chế đo TU  nghiệt ngã đã kéo dài từ 5 đến 16 năm.
Bao nhiêu người quân nhân đã bỏ mình trong trại  Tù Cải  Tạo.
Tai thành phố, và các tỉnh miền Nam, Việt Cộng đã lên chiếu  bài kiểm kê tài sản của tất cả người dân.
Nói rõ hơn là ăn cướp nhà và cướp tất cả tài sản của toàn dân.
Chồng đi cải tạo, người dân trong nhà chỉ còn lại phụ nữ và trẻ con đều bị cướp nhà, đuổi ra sống trong vùng Kinh Te Mới . Ho đã Chết  trên những cánh đồng hoang vu vi không có nước uống và thức ăn hàng ngày.
Sau năm 1975. xã hội miền Nam đã biến thành những vùng đối khổ .
Dân chúng đã bắt đầu vượt biên tìm Tự Do với những chiếc thuyền mỏng manh. Bao nhiều người đã chết trên biển cả.
Cán bộ Việt Cộng cướp đất, cướp nhà cướp tài sản và  tham nhũng khắp nơi trở thành giàu có và sống xa hoa tôi lỗi.
Sự kiện này tạo thành xã hội lừa đảo tham nhũng  lôi cuốn cả một đất nước không còn luật pháp, Con người không còn nhân phẩm, không lương tâm.
Luân lý không còn. Lương tâm con người  đã không còn. Nhiều phu nữ và trẻ em đã bán mình trong những cuộc truy lạc chi vi sự sống hằng ngày.
Sau năm 1990 Tây nguyên đã bị Tàu Trung Công lấy khai thác Bauxit. Trung Cộng  Đem ca đoàn quân đội lâm nhân công đến, trở thành vùng đất của Trung Quốc sinh sống và khai thác tài nguyên.
Sau năm 2000. Thanh phố nhà cửa xây building cao vì đã cho ngoại quốc vào kính doanh, nắm quyền thương mại.
Bên cạnh đó là những xóm Trọ của  công nhân.
Người làm công suốt ngày làm chỉ được đủ tiền thuê nhà  và 3 bữa ăn nghèo khổ.
Ngoài thành phố dân nghèo phải sống trong những mái tranh trên đồng ruộng heo lánh và cũng cả triệu dân đang che những túp lều sống trong những Nghĩa địa.
Sự lừa đối để hèn của Cộng Sản đã tháng tầng lớp người có hoc, có nhận tâm của chế độ Viêt Nam Cộng Hoà .
Chế Độ đã man, lừa dối đã thắng Chế độ Nhận Hậu của một nền văn mình ngan xưa truyền lại.
Mất nước là mất luôn cả những thể hệ V. Nam với  Nguồn Gốc nhân ban.
Đau đớn thay. Một quân đội với Hải Lục  Không Quân tinh nhuệ, với tinh thần cường quyết  bảo vệ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà đã bị cưỡng bức chết tức tưởi vì lòng tình toán trên cuộc chiến tại Việt Nam của người đàn anh Hoa Kỳ. 
Có bao giờ nước Mỹ nhìn lại về cái chết của cả một Dân Tốc Việt Nam ?
Bao nhiêu triệu dân sau hơn 48 năm đã biến thành người thiếu nhân phẩm chi vi sự sống còn của cuộc đời dưới chế độ Cộng Sản.
Nước Mỹ và thế giới nghĩ gì về. hàng triệu  Chiến Si và nhận dân Việt Nam Cộng Hoa  đã hy sinh trong cuộc chiến này!
Những người Cha, từ tuổi trẻ trung bình 
21 đến 45 đã Chiến đâu Anh Hùng và đã  hy sinh Cho cuộc Chiến Việt Nam.
Những người cha đã là thương phế binh đang sống vất vưởng tại Việt Nam và tai Hải ngoại .
Bao nhiêu chiến sĩ và người dân Việt Nam đã hy sinh giữ nước, để chi còn lại Tháng Tư Buồn.
Cảm ơn quý vị đã đọc bài viết để cùng nhau Thương Tiếc Việt Nam , trong dịp Thang  4. 
Kinh mời quý vi nghe nhạc.
Lê Nguyễn Nga 
Nhớ Thương Cha-Lê Nguyễn Nga-Nguyễn Tuấn-Lê Minh Chí

Nơi Địa Ngục Loài Người

Mấy ngày qua tôi dọn dẹp nhà cửa để đón cặp vợ chồng từ tiểu bang Connecticut qua. Chị tên Thanh Hương, thuộc khoá đàn chị của trường NTN mà tôi thường sinh hoạt họp mặt chung, anh tên Lê Phong đi du học Mỹ khóa một OCS (Officer Candidate School) vào năm 1970, là Sĩ Quan Liên Lạc Hải Yểm  (Naval GunFire Liaison officer). Anh đã đi tù “cải tạo” từ năm 1975 tới 1985.
Anh chị qua dự khoá hội ngộ “Gia Đình Hải Quân THĐ /OCS” tại nhà hàng Dynasty nằm trong khu Grand Century thuộc vùng Bắc Cali. Hai ngày nữa mới họp mặt, nên anh chị có thời gian chở tôi xuống Sacramento thăm bà hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Thành Nội xưa. 
          Sáng nay dậy sớm, tôi dọn thức ăn sáng và pha cà phê. Mấy anh em ngồi ôn chuyện xưa ngoài vườn. Tiếng chim hót réo rắt vui tai, không khí yên bình của buổi sáng tạo cảm giác thảnh thơi cho những người lớn tuổi đã về hưu, hưởng nhiều bổng lộc của đất nước Mỹ này. Bắt đầu từ những câu chuyện trên trời dưới đất, đi quanh thời gian hiện tại và ngày xưa, từ từ dẫn đến giai đoạn miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản. Bỗng dưng nét mặt anh Phong trầm xuống. Anh kể khoảng thời gian bị đi tù, quãng đời mà anh nói luôn ám ảnh trong đầu óc, dù anh đã cố gắng quên.
Chúng tôi hết đùa giỡn, lắng nghe câu chuyện một cách trân trọng của những mảnh đời khổ nhục lúc bị mất nước. Những người con từng hăng say chiến đấu, hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước, nhưng vận nước nổi trôi, và các anh phải chịu sống trong lao tù đày đọa. Giọng anh từ từ như đang sống lại …
– Tui bị đưa đi “cải tạo” đầu tiên từ trại Thanh Hoá, rồi đến Nghệ An, Hà Tịnh, Lòng Hồ Sông Mực, cuối cùng về trại Ái Tử Bình Điền. Nói chung khi được mùa khoai bắp thì tiêu chuẩn mỗi tù nhân nhận hai trái bắp đủ hột, ăn không được no, mất mùa thì trái bắp không có hột, chỉ toàn là cùi bắp, tù nhân phải ăn hết cùi bắp mới giải quyết cơn đói hành hạ đến run tay run chân.
Chị Hương nén tiếng thở dài, quay sang tôi: 
– Em thấy khổ chưa 
Anh tiếp tục:
– Ngày nọ vệ binh ném lựu đạn bắt cá ở Lòng Hồ Sông Mực, cán bộ đã bắt hết những con cá lớn béo tốt. Buổi chiều sau một ngày lao động, tù nhân trở về sông tắm rửa, còn lại những con cá nhỏ, anh em tù bắt về dự trù tối nấu ăn. Nơi Lòng Hồ Sông Mực trời rất lạnh, nên hai đầu láng lúc nào cũng có hai nhóm lửa để sưởi ấm. Một anh tù tên T hí hửng, mừng rỡ công lao mình hốt được lon cá, vừa đem ra tìm cách hơ cho cá chín. Không may, bọn cán bộ đi ngang qua, họ túm anh này ra ngoài rừng bắt ăn lon cá sống. Anh T vừa ăn vừa ói mửa nôn thốc vì mùi tanh. Nhiều cán bộ bao vây đánh anh T liên tục, ép phải ăn cho hết. Suốt buổi anh T bị đánh nhừ người, tiếng ói như bò rống vang trong đêm khuya. Anh em bạn tù nằm nín thở không ai ngủ được, trăn trở nhìn ánh lửa bập bùng trong bóng tối, trí óc ngớ ngẩn tê liệt, miệng lưỡi đắng nghét, quai hàm cứng lại muốn á khẩu. 
Anh ngừng nói, hợp ngụm cà phê dường như đè nén nỗi cảm xúc đang dâng lên
– Tui cũng vớt được nửa lon gô, đêm trắng mắt sợ hãi, ám ảnh âm thanh ói mửa của T, chỉ trông trời mau sáng để đem cá ra suối đổ đi, vì điều đơn giản là không muốn mình bị đánh và ăn cá sống như anh bạn.
– Trời ơi
Tôi rùng mình thốt lên. Anh lắc đầu nói tiếp:
– Anh Nguyễn N trước là Đại uý Trinh Sát có dáng người cao ráo, nhanh nhẹn, đẹp trai và tánh tình rất vui vẻ. N được phân công làm đội trưởng ra vào nhà bếp nhận những việc lặt vặt. Nhà bếp để dành phần cơm cho cán bộ đi công tác, N đói quá ăn lén phần cán bộ nhiều lần. Cán bộ nghi ngờ giả đi công tác, rình rập theo dõi và N bị bắt quả tang, cán bộ đánh một trận nhừ tử gần chết. Cái đói hành hạ thời gian sau N thường bắt cóc nhái ăn, rồi bị chết và chôn tại Lòng Hồ Sông Mực.
Im lặng một hồi như đang nguyện cầu cho người bạn xấu số, mọi người cũng im lặng theo, anh tiếp: 
– Cán bộ có lúc ăn tiệc, thức ăn dư thừa quăng đổ vào thùng nước gạo. Ngày hôm sau những người giữ công việc nuôi heo dùng nước gạo, vớt những thứ gì có thể ăn được đem về chia anh em tù, bị cán bộ biết được, họ cấm không cho đụng tới thùng nước gạo, chờ đến năm, sáu ngày sau thùng nước thối rữa mới cho lấy.
Hàng ngày anh em vào rừng kiếm gỗ, có những khúc to nặng tới mét rưỡi, gắng sức cả chục người mới vác về nỗi, dùng cưa đóng bàn ghế cho cán bộ. Có những hôm đi sâu tới ba, bốn ngọn đồi. Anh em gặp bãi nấm vui mừng hái luộc ăn tại chỗ, ai dè bị trúng độc. Trong đoàn có bác sĩ H bị nặng nhất, đi không được anh em phải khiêng về.
Nhấp tiếp cà phê, anh lại thong thả 
– Tụi tui đi Thanh Hoá chặt 10 hecta rừng ở Lòng Hồ Sông Mực để làm Thuỷ Điện. Giai đoạn đó tui bị bệnh thương hàn nặng được đưa về Ái Tử. Một hôm khoảng chín, mười người tù rủ nhau đi trốn, vừa ra cổng đã bị chận bắt. Tui được giao việc nuôi heo, mang thức ăn cho những người ngồi trong hộp (chuồng chó). Đi ngang qua ngôi nhà điều tra của cán bộ, thấy áo tù dính đầy máu rớt văng từng mảnh khắp nơi, chắc hẳn các bạn tù bị đánh đập kinh khủng lắm….
              Tô cháo đã vơi, ly cà phê cũng cạn. Trời rực hồng tươi sáng, cây cỏ xanh um, mấy khóm hoa hồng vàng, đỏ, tím tươi màu còn đọng những giọt sương mai lấp lánh chưa chịu tan. Bầu trời xanh ngát, những cụm mây trắng tản mát trôi nhiều phương, tôi ngẩng mặt nhìn rồi thốt một câu lấy lệ “ngàn năm mây bay” để cố nuốt những giọt lệ chực trào ra, trái tim nén thở theo câu chuyện đau lòng tức tưởi.
            Tôi châm trà thêm vì anh vẫn nói say sưa như chưa bao giờ được nói. Hình như mắt anh lạc thần, không nhận diện những gì trước mắt mà chỉ thấy khoảng thời gian trong địa ngục tối tăm của tháng ngày tù đày.
Nhiều tiếng phôn liên tục, anh Phong tạm ngưng câu chuyện để sửa soạn lên họp bạn, bàn bạc chuẩn bị cuộc gặp gỡ của “Gia Đình Hải Quân THĐ /OCS” ngày mai.
           Đêm hội ngộ khoảng hơn hai trăm người. Bạn bè gặp nhau tay xiết chặt mừng rỡ, bộ y phục trắng ngời của binh chủng Hải quân lúc làm lễ thật oai phong đẹp mắt.
Tôi đang để dòng ký ức quay về năm tháng cũ thì anh Phong đến ngồi bên chúng tôi, nét mặt anh tư lự thoáng buồn 
– Họp mặt để gặp nhau mừng rỡ chuyện trò, vì mái tóc ai cũng đã điểm sương chiều, vượt tuổi thất thập cổ lai hy. Bao nhiêu bạn đã ra đi, mấy người còn ở lại?!! Nhớ thời tuổi trẻ giữ gìn non sông, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc, bảo vệ lá cờ vàng có chính nghĩa. Sự biến đổi tình hình quá lẹ làng, cái đau của thể xác nào so được nỗi đau của tinh thần luôn dày vò. Mặc lại bộ quân phục của Hải Quân như để giải tỏa niềm mơ ước cũng như nỗi uất ức phần nào, và cũng để ôn lại một thời của người lính Việt Nam Cộng Hoà với tinh thần bất khuất, sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Tôi suy nghĩ miên man: những lớp người được đi du học Mỹ, được đào tạo huấn luyện kỹ càng về ngành thuỷ. Tinh thần họ anh dũng, chí làm trai can trường, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ miền Nam, đem sự an vui cho người dân sống trong ấm no, tự do và hạnh phúc. Biết bao người lính đã hy sinh xương máu với cuộc chiến do miền Bắc muốn xâm lấn, biết bao người lính vẫn kiên trì chiến đấu đến giờ phút cuối. Ôi thế sự bể dâu…Chỗ lạc hậu đòi giải phóng nơi tân tiến văn minh, chỗ nghèo đói đòi giải phóng nơi ấm no. Họ dùng miệng lưỡi khôn khéo để ngon ngọt với dân miền Nam, nhưng dân miền Nam vẫn luôn nhớ câu nói của tổng thống Thiệu “Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm.”
Các hình ảnh đấu tố chôn sống cày đầu thật dã man tàn ác ở miền Bắc với chiến dịch cải cách ruộng đất. Chuyện điển hình là ông nội tôi có tên trong danh sách, gia đình phải trốn thoát chạy đêm từ làng quê lên Hà Nội để xuống Hải Phòng di cư vào Nam. Ký kết ngừng bắn, để dân được sống yên bình nhưng tuổi thơ của tôi luôn nghe bên tai tiếng pháo kích, luôn xem cảnh nhà sập, trường học sập, trẻ em người lớn chết thảm thương diễn ra hằng ngày. Bằng chứng rõ rệt nhất là Tết Mậu Thân không thể che giấu được tội ác của họ. Miền Nam đào tạo các binh chủng lính là để tự vệ, quan tâm bảo vệ tới đời sống thanh bình của người dân chứ chẳng xâm lấn miền Bắc, chỉ có họ ký kết ngưng bắn nhưng lại phá hủy, xé ngay bản hoà đàm Paris.
             Tháng tư năm 1975 họ chiến thắng miền Nam, cho tôi mở lớn mắt nhìn cảnh tượng người dân Quảng Trị vừa nghe rục rịch tình hình chiến sự đã khủng hoảng cắm đầu chạy trên Đại Lộ Kinh Hoàng để vào Huế, đã diễn ra biết bao cảnh chết chóc điêu tàn. Huế lại đua nhau chạy vào Đà Nẵng. Tại sao lại có cảnh cha gánh mẹ già, vợ vác con dại…Từng đoàn người lầm lũi đi bộ trên đèo Hải Vân, dùng tất cả sức mòn hơi cạn miệt mài đi như chạy trốn ma quỷ đang ám sau lưng, tiến nhanh về phía có ánh mặt trời. 
            Tháng tư năm 1975 một bầu trời tang thương, mây đen u ám chụp xuống cuộc sống dân miền Nam. Nhà sĩ quan bị tịch thu, dân bị ép đi kinh tế mới, con “ngụy” không được học. Vợ sĩ quan lăn lóc giữa chốn bụi trần, dãi nắng dầm mưa kiếm cơm gạo nuôi con, và chắt chiu từng đồng dành dụm đi thăm chồng…
Đổi tiền, khám xét tư gia thành phần buôn bán, ăn cướp trắng trợn tài sản mồ hôi nước mắt của dân…Đây rất rõ ràng chuyện của ba tôi, ông là trưởng cuộc Cảnh Sát, sau một năm đi học tập, ông không được ở thành phố. Muốn yên thân ba tôi kéo cả gia đình lên kinh tế mới vùng Sông Dầu thuộc tỉnh Phan Rang sinh sống. Với sáng kiến và sự lanh lẹ tháo vát, ông mở ngay lò đúc gạch, con cái sắm bò vào rừng kéo gỗ. Tình trạng khả quan ba tôi tuyển hết dân trên vùng kinh tế mới vào làm lò gạch, phát lương và xuất tiền trả bệnh viện lúc công nhân ốm đau. Dần dần ông đệ đơn xin huyện xã cấp gạo theo tiêu chuẩn công nhân được hưởng quyền lợi lãnh phần mỗi tháng. Công việc càng ngày càng phát triển, các bệnh viện, trường học, cơ quan lên ký hợp đồng mua gạch rất đông khách hàng. Chỉ một khoảng thời gian ngắn khấm khá, cấp lãnh đạo gởi giấy “mượn” lò gạch, mượn trâu bò và xe kéo. Ba tôi biết trước tình hình, còn chút của cải là hai chiếc xe đạp và máy hát, sáng sớm hôm sau cha con tôi đạp về vùng kinh tế mới khác gởi nhà ông chú. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh hai cha con đạp xe từ 5 giờ sáng tới 2 giờ chiều dưới trời nắng gắt, chỉ nghỉ ăn cơm trưa nơi cửa hàng dịch vụ ăn uống tại thành phố Phan Rang. Ba tôi thở dài nói với các con “Một chế độ lạ lùng bất nhân, mình nghèo thì họ đạp cho chết luôn, mình khá một tý thì họ đi ăn cướp ngang nhiên …chưa thấy chế độ nào như chế độ này.”
Khi họ vào chiếm Đà Nẵng, mẹ tôi sợ hãi tột cùng, mặt tái xanh gọi tôi lại, đưa tiền và mếu máo nói “con thích ăn gì thì cứ ăn, xong tới tiệm thuốc Tây mua mấy chai thuốc diệt rầy bọ về, mấy mẹ con mình cùng uống, chứ mẹ đã từng sống với họ rồi, sống không nổi đâu con ơi”. Tôi sững sờ nhưng quay lưng bỏ đi tránh nhìn nét mặt đau khổ tột cùng của người mẹ đã chạy trốn năm 1954 di cư vào Nam.
            Cảnh vượt biên tiếp diễn, chồng vợ xa nhau, tình yêu tan rã, gia đình ly tan, mạnh ai nấy đi tìm sự sống, tìm sự tự do trong nguy hiểm, sống chết liều mình giữa biển khơi, đàn bà con gái gặp hải tặc. Chẳng kể đâu xa, gia đình nhà chồng tôi có em gái bị mất tích, cháu gái biền biệt không nghe tin tức, bà con chồng bị hải tặc giết quăng xác giữa biển khơi. Muốn hiểu thêm nữa thì có hàng vạn chuyện thương tâm kể sẽ không hết.
            Thông cảm niềm đau chung của đất nước và nỗi buồn khôn tả của các anh. Nhớ lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam “làm tướng mà không giữ được thành thì sống làm chi nữa”, cùng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ cũng như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn văn Long, và còn nhiều nhân vật khác nữa đã tuẫn tiết. Những người lính thầm lặng bỏ xác, còn các anh thì bị đày đọa chốn rừng sâu nước độc, chỗ tăm tối mà loài người cứ ngỡ chỉ có ở chín tầng địa ngục trong các bộ kinh Phật Giáo thường đọc, nhưng sự thật đã hiển hiện ngay nơi cõi trần gian này.
              
Ngày cuối cùng anh chị còn lên San Jose dùng bữa cơm thân mật với số bạn bè định cư vùng này trước khi trở về. Chia tay chúng tôi, anh chị than nhẹ 
– Đi chơi vẫn không yên, bà con kêu réo giúp việc này, lo việc kia dồn dập 
Tôi cười 
– Tại có tài thì phải mang nợ
Quả thực trong thời gian ở lại nhà tôi, anh chị đã bận rộn liên tục trả lời phôn. Tôi được biết bước đầu lúc đặt chân đến Mỹ, định cư nơi tiểu bang Connecticut, anh làm việc tại cơ quan International Rescue Committee (IRC), giúp đỡ người tỵ nạn thế giới. Lo vấn đề foodstamp, trợ cấp, welfare, tìm xe, hướng dẫn đường xe bus, kiếm việc, làm SS, ID.
Lúc tuổi về hưu cho đến hiện nay anh nhận thông dịch mọi việc toà án, bệnh viện, di trú, quốc tịch. Hai người thay phiên nhau đi đón phi trường hoặc làm tài xế những việc khẩn cấp.
Anh chị là người sống có tình có nghĩa, đầy ắp lòng nhân hậu nên tùy trường hợp mà tính giá tượng trưng hoặc giúp đỡ không công. 
Tiễn anh chị ra xe, anh tuy đã gần bát thập nhưng nhìn còn khỏe mạnh, hai người thường lái xe xuyên bang thăm bạn bè. Con cái trưởng thành lập gia đình ra riêng, chỉ còn đôi vợ chồng già tìm niềm vui nơi các sinh hoạt cộng đồng, nơi hội Cao Niên, và họp bạn năm xưa. Những câu chuyện anh kể, hãi hùng và man rợ đã lấy những giọt nước mắt của tôi không ít. Giờ đây các anh còn chỗ dung thân nơi đất khách quê người, tuổi già lực bất tòng tâm, nhưng vẫn còn an ủi được nhìn thấy lá cờ vàng thân yêu. Tôi luôn kính ngưỡng những người lính Việt Nam Cộng Hoà, những người bị tù tội một thời tưởng như từ cõi địa ngục được sống sót trở về.
Tháng Tư Bừng Ký Ức
Mỗi tháng tư về gợi nhớ thay
Miền Nam điêu đứng lệ vơi đầy 
Đua nhau chạy giặc tìm phương thoát 
Giặc Cọng xông tràn quyết chiếm vây 


Lầm lũi đoàn người bước thật nhanh 
Hải Vân cuốc bộ vẫn cam đành 
Tay bồng, tay ẵm kiên trì sức 
Gắng gượng trèo đèo phút tử sanh


Các tướng can trường chẳng sợ chi
Niềm đau “mất nước sống làm gì“ 
Xem thường sự chết tìm đường tử 
Lịch sử trang hùng sẽ khắc ghi 


Người lính phế binh quá thảm thương
Thân đang điều trị chuyện khôn lường 
Lết rời bệnh viện đời tăm tối 
Cuộc sống không tìm ánh thái dương 


“Cải tạo” chồng đi biệt mút mùa 
Rừng thiêng nước độc bị giam lùa
Khổ sai, lao động thân mòn mỏi 
Nước mắt chan hoà cúi phận thua


Vợ lết bên lề nét xác xơ 
Kiếm tiền nuôi nhọc đám con thơ 
Chắt chiu gom góp thăm tù tội 
Đợi mãi mù tăm dõi bóng chờ 


Những kẻ yêu rồi cũng hết duyên
Chia tay vượt biển trốn chui thuyền 
Tương lai tự cứu liều giông bão 
Ánh sáng Tự Do quyết đến miền


Mỗi tháng tư về dạ chứa chan
Lưu vong gìn giữ lá cờ vàng 
Bây giờ dẫu điểm sương đầu bạc 
Bốn tám năm còn nỗi hận mang
 
Minh Thúy Thành Nội 
                                                                            Tháng Tư / 2023 

AI ÁC HƠN VỚI TB. VNCH.



Tháng Tư chiếm viện*đuổi thương binh.
Nặng nhẹ cụt, đui, máu phủ mình,
Lê lếch nương nhau rời khỏi viện,
Đớn đau gục chết, nghĩ thù kinh.


Cộng sao quá ác, không nhân tính,
Man thú rừng hoang mãi nhớ khinh.
Nhưng thật suy ra còn hiểu được.
Giết nhau vừa đó, chẳng nhân tình.


Nước mất cùng phe, kẻ rủi, may:
Người đi thoát nạn được no say,
Được dân khác giống thương yêu giúp.
Thương phế quê nhà lắm đắng cay.


Cầu cứu thư qua, lờ chẳng đoái.
Dã man ích kỷ quá lang** loài.
Sánh ra còn ác hơn quân Cộng.
Bội bạc cùng phe, phải nhắc hoài.


ĐỒ QUẢNG (Apr 23)
*Viện: Quân Y Viện (Military Hospital)
**Lang= Chó sói= cayote, wolf, loup.