
Nguyễn Lý-Tưởng 30 tuổi (đương kim Dân Biểu – congressman – VNCH) chụp năm 1970
| Tiểu sử của Nguyễn Lý-Tưởng -Sinh quán: Dương Lộc, Triệu Phong, Quảng Trị (Việt Nam) – Tuổi Kỳ Mão (1939) – Cựu học sinh trường Pellerin (Bình Linh) và Providence (Thiên Hựu) Huế -Cựu sinh viên Viện Hán học, Đại học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Huế -Tốt nghiệp Đại học Sư phạm -Giáo sư trường Duy Tân Phan Rang, biệt phái về Văn Phòng Công Cán Ủy Viên đặc trách Thanh Niên Bộ Giáo Dục VNCH. -Dân Biểu Hạ Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa nhiệm kỳ I (1967-1971) -Tổng Ủy Viên Thông Tin Báo Chí Ban Chấp Hành Trung Ương Đại Việt Cách Mạng Đảng (1970 – 1975) -Viết văn, viết báo từ 1957. Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút Nhật Báo Da Vàng tại Saigon 1970. -Cộng tác với Báo Mầm Sống ở Huế (1957) và các nhật báo tại Saigon từ 1963 như Tự Do, Xây Dựng, Sống Mới, Sống, Độc Lập, Lẽ Sống, Thời Thế và các Tuần Báo tại Saigon trước 1975. Thường phát biểu trên các Đài Phát Thanh, Truyền Hình Huế, Saigon trước 1975. -Xuất ngoại nghiên cứu về kinh tế, canh nông, vận động ngoại giao tại các nước Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Hòa Lan, Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn (Nam Hàn), Thái Lan, Singapor, Mã Lai. Tham gia Hội Nghị Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế kỳ 58 tại Hoa Lan (10/1970). Yết kiến Đức Giáo Hoàng Paul VI tại Vatican ngày 18/3/1970…Nguyễn Lý-Tưởng là phát ngôn nhân của Phái đoàn Ủy Ban Canh Nông Hạ Nghị Viện… -Tổng Thư Ký Hội Sử học, tham gia Hội nghị Sử học Đông Nam Á họp tại Đài Loan 7/1969 cùng với GS Nguyễn Phương Hội trưởng Hội Sử học VN. -Sau 1971, trở lại ngành Giáo Dục, giáo sư các lớp 10, 11, 12 tại trường Hồ Ngọc Cẩn Gia Định (trường Công lập) và dạy Sử Địa, Văn chương, Sinh ngữ tại các trường tư thục Saigon, Gia Định, Thủ Đức. -Sau 30/4/1975, bị tù dưới chế độ CSVN tổng cộng 14 năm (1975 – 1988 và từ 1992 – 1993), đã trải qua các nhà tù: Long Thành, Thủ Đức, Hà Tây, Nam Hà…Ba lần bị cùm một chân trong nhà kỷ luật, 20 tháng biệt giam tại các nhà giam từ Nam ra Bắc: Hỏa Lò, Chí Hòa, 4 Phan Đăng Lưu (Gia Định) trước mặt chợ Bà Chiểu, 3-C Bến Bạch Đằng (Tôn Đức Thắng) Saigon, Khu Kiên Giam lao xá Chí Hòa…Năm 1992, bị buộc tội hoạt đổ chính quyền nhân dân (CSVN). -Định cư tại Hoa Kỳ tháng 7/1994, tiếp tục viết văn, viết báo, tranh đấu cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam. -Từ 1995 cùng với các bạn là Lê Quang Sinh (Như Hoa), Nguyễn Phúc (Nguyễn Phúc Sông Hương) thành lập Hội Thơ Tài Tử VN Hải Ngoại, nhiều lần tổ chức Đại Hội Thơ tại Nam Cali và các nơi khác trên nước Mỹ và thế giới, xuất bản trên 10 Tuyển Tập Thơ có tên Cụm Hoa Tình Yêu, có khoảng 500 thi hữu hội viên trên toàn thế giới kể cả Việt Nam. -Từ 1998, với sự hợp tác của Phong Trào Giáo Dân VN Hải ngoại, thực hiện Tuyển Tập “Thảm Sát Mậu Thân 1968 tại Huế” tổ chức các buổi tưởng niệm nạn nhân CS trong Tết Mậu Thân tại nhiều thành phố lớn Hoa Kỳ, Pháp, Đức, v.v. mục đích tố cáo tội ác dã man của CSVN…Kim Nhung thực hiện các cuộc phỏng vấn GS Nguyễn Lý-Tưởng trên truyền hình với tư cách nhân chứng về Tết Mậu Thân (Kim Nhung Show đài SBTN) – Paris by Night 91 chủ đề Huế, Saigon, Hà Nội…MC Nguyễn Ngọc Ngạn phỏng vấn GS Nguyễn Lý-Tưởng về Tết Mậu Thân…Gần đây nhất, Tâm An phỏng vấn Nguyễn Lý-Tưởng về Tết Mậu Thân vào ngày 2 Tết Nhâm Dần(2/2/2022), đưa lên internet chương trình dài 02 giờ đồng hồ. -Năm 2008, nhân kỷ niệm 40 năm vụ “Thảm Sát Tết Mậu Thân ở Huế 1968” NLT được mời phát biểu với tư cách nhân chứng tại VietNam Centre (Trung Tâm Lưu Trữ Tài Liệu Chiến Tranh Việt Nam) Đại học Lubbuck, Texas …trước các quan khách và báo chí Mỹ, Việt Nam, các Nghị sĩ, Dân biểu, Giáo sư Đại học, cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến tại Việt Nam, đặc biệt các nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ và những nhà đầu tư Hoa Kỳ (gốc Việt) đang hợp tác với Việt Nam. Phiến Đan (Đài Litlle Saigon TV) phỏng vấn Nguyễn Lý-Tưởng về sách “Thác Lũ Mưa Nguồn” Quyển I (2016) liên tiếp 4, 5 chương trình…Đài TV của Lê Đình Bì tại San Jose cũng thực hiện phỏng vấn và tường thuật “Ngày Gặp Gỡ Bà Con Bạn Bè” của Nguyễn Lý-Tưởng nhân dịp giới thiệu sách “Thác Lũ Mưa Nguồn” Hồi Ký của Nguyễn Lý-Tưởng tổ chức tại Westminster ngày 17/4/2016 được phổ biến trên TV và internet -Tháng 11/1998, là diễn giả chính trong lễ tưởng niệm 35 năm Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thẳm sát tại Saigon ngày 2 tháng 11/1963, được tổ chức tại San Jose do nhóm thân hữu của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Tổ Chức, chương trình được trực tiếp truyền thanh…đặc biệt không tổ chức dưới hình thức nghi lễ tôn giáo trong nhà thờ. -Tổng Thư Ký Nguyệt San Hiệp Nhất tại Trung Tạm Công Giáo Việt Nam (Giáo Phận Orange) 10 năm -Tổng Thư Ký báo Chính Việt (Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị). -Chủ trương báo Xuân Đại Việt từ 2013 đến nay. -Hội luận và trả lời phỏng vấn trên các đài Phát Thanh và Truyền Hình tại Hoa Kỳ…đặc biệt từ 2015 đến 2020, mỗi tuần một giờ, trả lời các câu hỏi của Mai Ly (Tổng giám đốc Đài Phát Thanh Việt Nam tại Oklahoma) về các vấn đề chính trị, thời sự liên quan đến Hoa Kỳ, Việt Nam và thế giới. Chương trình nầy được phổ biến qua internet, khắp nơi trên thế giới đều có thể theo dõi được. -Được Đại Hội Đại Biểu Đại Việt Cách Mạng Đảng tổ chức tại Houston TX hai ngày 30 và 31/3/2012 bầu làm Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương ĐVCM Đảng 2 nhiệm kỳ (2012 -2016 và 2016-2020) CÁC TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN. a.Truyện ngắn: -Đàn Bướm Lạ Trong Vườn -Thu Còn Vương Nắng -Ngày Trở Về -Hai Thế Hệ (in chung với Trần Quán Niệm và Phan Vỹ) b. Hồi Ký: Thác Lũ Mưa Nguồn (Quyển I, 2016) và Quyển II (2021) c. Thơ: -Theo Dấu Chân Chim -Tình Khúc Mùa Xuân -Vùng Hoang Tưởng d. Nghiên cứu lịch sử: -Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu -Nhà Bè Nước Chảy Chia Hai -Đưa Em Tới Chốn Nhà Hồ (I) và (II) – Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn) Hán văn – do các Giáo Sư Trần Vinh Anh, Lê Ngọc Bích, Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Lý-Tưởng phiên dịch và chú thích – nhà sách Khai Trí xuất bản trước 1975. -Thảm Sát Mậu Thân 1968 tại Huế (tuyển tập tài liệu gồm nhiều tác giả) e.Sẽ xuất bản: -Thác Lũ Mưa Nguồn (Hồi ký Quyển III) -Lịch Sử Việt Nam qua 12 con giáp (tài liệu lịch sử ) -Má Lúm Đồng Tiền (Truyện ngắn) – Thương Về Quảng Trị (Thơ) |
| Các tác phẩm đã được xuất bản của tác giả Nguyễn Lý Tưởng |
| (1) Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên (tài liệu lịc sử do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn thời vua Thiệu Trị (1841-184) biên soạn bản dịch ra tiếng Việt của các GS Trần Vinh Anh, Lê Ngọc Bích, Nguyễn Đức Cung và Nguyễn Lý-Tưởng – nhà sách Khai Trí Saigon xuất bản 1974…Sau 30/4/1975 sách nầy bị CSVN tịch thu. (2) Đàn Bướm Lạ Trong Vườn (Truyện ngắn của Nguyễn Lý-Tưởng) tác giả xuất bản lần I năm 1998 tại Hoa Kỳ (3) Thu Còn Vương Nắng (Truyện ngắn của Nguyễn Lý-Tưởng) tác giả xuất bản lần I năm 2005 tại Hoa Kỳ (4) Ngày Trở Về (Truyện nắn của Nguyễn Lý-Tưởng) tác giả xuất bản lần I năm 2009 tại Hoa Kỳ (5) Vùng Hoang Tưởng (Thơ của Nguyễn Lý-Tưởng) tác giả xuất bản lần I năm 2009 tại Hoa Kỳ, in chung với Ngày Trở Về (6) Theo Dấu Chân Chim (tập thơ đầu tay của Nguyễn Lý-Tưởng) tác giả xuất bản lần I năm 1996 tại Hoa Kỳ (7) Tình Khúc Mùa Xuân (Thơ của Nguyễn Lý-Tưởng) tác giả xuất bản lần I năm 2000 tại Hoa Kỳ (8) Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu (nghiên cứu lịch sử – 25 đề tài từ cổ sử đến hiện đại) Nguyễn Lý-Tưởng xuất bản lần I năm 2001 tại Hoa Kỳ |

Thương Về Quảng Trị- Triệu Dương- Nguyễn Lý Tưởng̣ ( Vui lòng bấm vào đây để thưởng thức)
Nếu văn hữu hay độc giả muốn có sách in, xin liên lạc riêng với Nguyễn Lý Tưởng
email: lytuongnguyen@yahoo.com, hoặc gởi thư về địa chỉ: 8952 Champion Ave, Westminster, CA 92683. (Tel 714 -653 – 5125)
(1) Theo Dấu Chân Chim (phát hành lần đầu năm 1996)
(2) Tình Khúc Mùa Xuân (phát hành lần đầu năm 2001)
(3) Vùng Hoang Tưởng (phát hành lần đầu năm 2007)
(4) Thương Về Quảng Trị (phát hành lần đầu năm 2023)




























Hội luận với Kỹ sư Đỗ Như Điện và GS Nguyễn Lý-Tưởng về tin hình thời sự chính trị Hoa Kỳ, Việt Nam
| Trang thơ của thi sĩ Triệu Dương- Nguyễn Lý Tưởng |
| Sau 30/4/1975, tất cả những thơ, văn của Nguyễn Lý-Tưởng được đăng báo…đều bị tịch thu, đem đốt hết. Nguyễn Lý-Tưởng làm thơ từ khi mới 12 tuổi (đậu tiểu học lúc 11 tuổi) đến năm 15, 16 tuổi thơ được đăng báo được giới thiệu trên radio (Huế, Saigon)…Năm 1957, nhân một truyện ngắn của Nguyễn Lý-Tưởng đăng tên báo Mầm Sống (số 6) 6/1957 ở Huế, Nguyễn Lý-Tưởng được chú ý nhiều (nổi tiếng). Trong đó có một bài thơ…Nguyễn Lý-Tưởng gặp nhiều chuyện rắc rối, nên đã bỏ Huế vô Saigon, vừa học vừa làm thơ, viết truyện ngắn đăng báo… Sau 1963, Nguyễn Lý-Tưởng chính thức có thẻ phóng viên (Kỷ giả) do Bộ Thông Tin VNCH cấp…Nguyễn Lý-Tưởng chính thức tham gia hoạt động chính trị, viết báo để tranh đấu cho lập trường chính trị của mình…Từ 1962 – 1965, Nguyễn Lý-Tưởng dạy học (dạy giờ tại các trường tư thục) Từ 1966-1967, Nguyễn Lý-Tưởng dạy ở các trường công lập và làm việc tại Bộ Giáo Dục Saigon. Nguyễn Lý-Tưởng ứng cử và dắc cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện VNCH nhiệm kỳ I (1967-1971)…Năm 1970, Nguyễn Lý-Tưởng là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút nhật báo Da Vàng (trụ sở 205 đường Phạm Ngũ Lão Saigon)… Nguyễn Lý-Tưởng vẫn viết báo, dạy học, hoạt động chính trị cho đến 30/4/1975 thì bị tù cải tạo (lần I từ 1975 – 1988; lần II từ 1992-1993) – định cư tại Hoa Kỳ (diên HO tức cựu tù nhân chính trị) 7/1994… Nguyễn Lý-Tưởng tiếp tục làm thơ, viết văn, viết báo…Tác phẩm đầu tay xuất bản tại Hoa Kỳ 1996 “Theo Dấu Chân Chim” (Thơ) và “Đàn Bướm Lạ Trong Vườn” (truyện) 1998…Hiện nay, Nguyễn Lý-Tưởng có 04 tập Thơ, tất cả trên 500 bài thơ… |

| Em Đi Giữa Mùa Xuân Mùa Xuân em mặc áo hồng, Hài tiên nhẹ lướt qua đồng cỏ non. Tuyết tan, nước chảy thành nguồn, Hoa khoe sắc thắm, giang sơn tuyệt vời. Tưởng mình mười tám, đôi mươi, Tuổi thơ vọng lại những lời yêu thương. Tóc em còn đượm mùi hương, Bước chân em vẫn còn vương dặm dài. Cánh tay ôm trọn hình hài, Nụ hôn xin gửi cho người xa xưa. Suốt đời đi sớm về trưa, Biết bao thương nhớ cho vừa lòng nhau. Sân ga vắng bóng con tàu, Nước non vẫn cứ một màu cỏ cây. Hết đêm rồi lại đến ngày, Bàn tay còn đợi bàn tay ân cần. Đã đi vào kiếp phong trần, Làm sao tránh khỏi một lần đam mê. Xin anh đừng đợi em về, Đời em còn lắm nhiêu khê ngại ngùng. Em đang đi giữa mùa Xuân, Như con bướm lạ ngập ngừng vườn hoang Triệu Dương NLT 13/4/1999 (Tình Khúc Mùa Xuân) |
| Lời Thanh Sử Lạc bước giang hồ, rượu một bầu, Dòng sông, bãi cát, mướt ngàn dâu. Đàn chim về núi, chiều không đợi, Muốn hỏi, người xa chẳng biết đâu! Năm tháng dần qua, nặng hai vai, Cô đơn lê bước quãng đường dài. Một nguồn thi tứ chưa trao gởi, Tri kỷ, giờ đây được mấy người ? Mùa Thu chưa đến, gió chờ mây, Bể thẳm, trời cao, lớp sóng đầy. Men rượu không phai tình cố cựu, Nắng hồng, nhưng vẫn lạnh đôi tay. Thuyền ai đỗ bến đêm khuya đó, Tiếng nhạc ly hương bỗng não nề. Tráng sĩ qua Tần chưa trở lại, Gót giày phiêu bạt chốn sơn khê. Tháng chín Cali trời nắng đẹp, Mùa Thu bên đó giọng ai buồn ? Ở đây sao vắng lời tâm sự, Nước lũ tràn dâng, động suối nguồn… Sài Gòn đêm xuống vẫn mưa bay, Tháng chín về trong ánh mắt đầy; Những hạt sao rơi đèn hứng gió, Cuộc đời đen bạc lắm chua cay. Thu trước cùng nhau ngồi uống rượu, Bao nhiêu tâm sự thuở ban đầu. Quanh co lối cũ chưa tìm được, Một bức hoa tiên dệt gấm châu. Người đi mang mộng ước nghìn sau, Mãi mãi trời xanh, nước một màu. Hy vọng vươn lên cùng sức sống, Ngày về xin nhớ gọi tên nhau. Rượu uống mình ta, hồ chưa cạn, Nghe trong huyết quản đã dâng trào. Một dòng tranh đấu từ thanh sử, Dội ngược về tim lửa bốc cao. 8 tháng 9, 1995 Triệu Dương NLT |
1. Bài thơ thứ I viết cho Mẹ …Mẹ tôi qua đời ngày 30/10/1995 tức 17/9/Ất Sửu lúc 10 giờ 24 sáng…nhưng hai tháng sau mới nhận được thư nhà ngày 31/12/1995, NLT mời bạn bè trại Nam Hà miền Bắc VN họp mặt và đọc bài thơ nầy… Con Nhớ Mẹ Ngước mặt nhìn Trường Sơn, Tựa lưng ra Đông Hải. Ôi ! Núi cao vời vợi ! Ôi ! Biển rộng bao la ! Địa linh chốn quê nhà, Nơi mẹ hiền sinh ra. Hài nhi con ơi ! Con lớn khôn nhờ sữa mẹ. Mẹ ơi ! Mẹ ơi ! Con nhớ mẹ ngàn đời ! Lời mẹ hát bên nôi, Khi nắng ban mai, Luồn qua song cửa. Mẹ thương con, Từng hơi thở, Từng nhịp đập của con tim. Ánh trăng giãi bên thềm, Gió lành hôn mái tóc. Con bước vào tuổi ngọc. Mẹ dạy con nói, Mẹ dìu con đi. Cơm lành, canh ngọt, Vải vóc,lụa là… Mẹ cho con đi học trường xa. Lòng mẹ những xót xa, Thương con mồ côi, Từ khi lên sáu tuổi. Mỗi sáng mỗi tối, Mẹ những cầu xin. Nhưng, Nước mắt không xóa nỗi ưu phiền. Mẹ thức suốt đêm, Vì con bệnh hoạn. Tám lần sinh con, Nay còn một đứa ! Mẹ sầu, mẹ khổ Suốt cả cuộc đời ! Hài nhi con ơi ! Con nhờ “Đức” mẹ. Ngày con ra đi, Là ngày phân ly !!! Mẹ chờ con, từng năm từng tháng, Mẹ nhớ con, từng phút từng giây. Hơn mười năm nay, Mỗi lần Tết đến, Bao lời hứa hẹn, Xuân nay con mẹ sẽ về ! Vườn nhà cây trổ lộc, Hoa vàng vẫn nở bông. Vẫn ánh nắng hồng, Vẫn bóng trăng trong. Trẻ thơ vẫn thấy rạo rực trong lòng. Hài nhi con ơi ! Mẹ nhớ mẹ mong ! Sông kia nước chảy xuôi dòng, Hoa kia vẫn nở nụ hồng thắm tươi. Trông con, trông mãi trông hoài. Nay hết số trời, mẹ rời con đi. Hài nhi ơi ! Hỡi hài nhi ! Thiên đàng quê thật, sá gì trần gian. Xa con, mẹ chết ai chôn ? Tuổi già đau yếu, lo buồn có ai ? Đưa con qua quãng đường dài, Gông cùm, tù tội, đọa đày tháng năm. Mười năm, đã quá mười năm, Xót xa nhớ mẹ, đêm nằm không yên. Nhắm mắt, thấy bóng mẹ hiền, Con ôm mẹ khóc, muộn phiền dâng cao. Nước mắt nhớ mẹ tuôn trào, Trông ra đêm tối, trăng sao đầy trời. Làm sao cho lệ đầy vơi, Làm sao cho nước biển khơi cạn dần. Mẹ ơi ! Trên chốn thiên đàng, Nhìn con của mẹ, trần gian mơ về. 31 tháng 12, 1995 Triệu Dương Nguyễn Lý-Tưởng. |
| Xin Đừng Quên Tôi (Lời của một linh hồn nơi luyện tội) Xin cho tôi Được ở trong lòng tổ phụ Abraham Như người nghèo La-za-ro. Vì tôi là một linh hồn nhỏ, Đang bị giam cầm đày đọa, Nơi luyện hình tối tăm ! Tôi ở đây đã bao nhiêu năm… Ngày xưa tôi thừa thãi thức ăn, Ngày xưa tôi không thiếu áo mặc, Ngày xưa tôi nhiều tiền bạc, Tôi không hề chia sẻ với ai ! Tôi chẳng muốn đoái hoài Tới người bên cạnh… Mặc kệ ai rét lạnh, Mặc kệ ai ốm đau ! Tôi chỉ chơi với người giàu Và những ai quyền thế ! Tôi không hề suy nghĩ, Tôi không hề băn khoăn… Tôi không phải nhọc nhằn, Vì thức khuya dậy sớm… Tôi không hề xúc động Khi đọc bài Tin Mừng: “Dụ ngôn người phú hộ và La-za-rô nghèo khó”… Tôi không hề gởi tiền của Vào ngân khố ở trên thiên đàng, Là nơi không hề mối mọt tiêu tan… Tôi bịt tai, Không muốn nghe tiếng khóc than. Tôi không muốn nghe lời rên siết Từ những nơi giam cầm tù tội, Nơi những người hấp hối, Những người nghèo đói bị bỏ rơi… Xin cho tôi một giọt nước Nhỏ xuống từ tay La-za-rô Đang ngồi trong lòng tổ phụ! Người thân tôi còn đó, Bạn bè tôi còn đó… Xin đừng quên tôi Trong lò lửa luyện hình! Một chút hy sinh, Một lời cầu nguyện, Một việc hãm mình, Chút tình bác ái… Dành cho những linh hồn mồ côi Đang còn nơi tăm tối… (Tháng 11, nhờ đến kẻ qua đời) Triệu Dương NLT (Vùng Hoang Tưởng, tr. 226) |

| Nỗi Buồn Tháng Tư Ta lớn lên giữa thời ly loạn, Không đêm nào được ngủ yên, Hạnh phúc đến rồi đi như giấc mộng, Cuộc sống lênh đênh, thuyền lướt sóng, Tuổi trẻ phiêu bạt xứ người, Quê hương chỉ là trong kỷ niệm, Người yêu đến trong giấc mơ, lấy hư làm thật. Nghìn dòng suối đều chảy ra Biển Đông, chỉ nước sông Nhược chảy về núi Tây. Em tồn tại như hoa vàng mùa thu trong cơn bão tuyết. (1) Ta gặp nhau tận cuối trời, đá mòn rêu nhạt, nước chảy hoa trôi! Hạc vàng đi mất tự ngàn xưa… Cỏ thơm xanh biếc bãi sông, trận cuồng phong thổi đến, Cúi đầu nhìn lại lúc chia tay. Mặt trời bên kia đỉnh núi, đại lão nhìn cảnh hoàng hôn, ngồi đợi xe mây. Ôi! cuộc đời còn lại bấy nhiêu năm mà mơ ước… Triệu Dương NLT 30/3/2019 (1) Chúng thủy giai Đông, Nhược thủy Tây (Tê) Bách hoa giai tạ, cúc hoa tề |
| Nhớ Ngô Văn Thọ (1) Tôi kêu lên “Chú Mười” khi được tin anh mất! Trại Hà Tây: vùng đất ngục tù! Mấy năm trời: đói rách, xác xơ Cùng bè bạn Mỹ Phước Tây, Nam Bộ.(2) Mùa Xuân Bảy Tám (1978): Năm Mậu Ngọ, Hai trăm người: cán bộ, sĩ quan, Từ Mỹ Tho, Gò Công…đã đầu hàng Sau ngày Miền Nam sụp đổ! Bao nhiêu người đã chết vì đói khổ, Vì gông cùm, đày ải, xa quê hương… Là võ sư điều khiển một võ đường, Nay lại bị còng tay, tra tấn… Đấng anh hùng mang bao nhiêu uất hận! Ôi ! ngày xưa anh ngang dọc trên võ đài, Nay thất thế trong cô đơn, buồn tủi! Bị biệt giam một mình trong phòng tối! Nghe tứ chi xương cốt rã rời! Trên da thịt những vết bầm dính máu. Đau đớn lắm: toàn thân anh rúng động! Trời miền Bắc lạnh như dao cắt thịt, Những đêm Đông da diết tình người! Kết nghĩa anh em, chia sẻ ngọt bùi, Cùng tâm sự cuộc đời tuổi trẻ. Anh còn vợ, còn con, còn em, còn mẹ, Mười mẫu vườn hoa trái ở miền quê. Bị cướp đoạt đem chia cho lũ giặc! Chuyện tương lai! Anh cho là huyền hoặc! Nói đến ngày về: anh chỉ lắc đầu! Bên kia núi: mặt trời xuống mau, Bao làng xóm chìm sâu trong bóng tối! Khuyến khích anh, tôi tìm lời an ủi: Hãy tin vào vận hội ngày mai! Cuộc đời: bỉ cực thới lai! Hết Đông qua, rồi Xuân lại đến! Một hôm, tôi rời Hà Tây đi Hà Nội, Nơi kiên giam: buống tối Hỏa Lò! Nửa năm trời khai báo chuyện xưa… Nhưng quả đất tròn, Mình lại gặp nhau mà không hẹn! Tôi trở về Hà Tây khi Tết đến! Anh bây giờ đã khác hơn xưa… Tiếp tế, thăm nuôi, dồn dập đến Tin tức gia đình: chờ đợi bao năm… Năm Nhâm Tuất (1982),anh ra khỏi trại, Về Saigon, anh lại vượt biên… Hai mươi năm vất vả kiếm tiền, Quyết xây lại tình duyên dang dở… Chuyến về quê, tấm lòng rộng mở… Gặp lại người xưa, con cháu sum vầy! Ai ngờ một cuộc chia tay, Anh mang trọng bệnh đêm ngày thuốc thang! Nghe tin anh mất: bàng hoàng trong dạ, Bạn bè anh: mỗi người một ngã Chẳng có ai để tiễn đưa anh! Mấy bài thơ, vài tập truyện, bức tranh… Anh để lại cho đời sau thưởng lãm… Ôi! Hồi kết cuộc sao mà bi thảm!? Sống cô đơn và chết cũng cô đơn! Tôi xin đốt lên một nén hương Để tưởng nhớ người anh em kết nghĩa! Westminster, 22/11/2010 Triệu Dương NLT (1) Ngô Văn Thọ: cựu tù nhân chính trị trại Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình (Bắc VN) sinh năm 1944, mất ngày 2/10/2008, tại TP Garden Grove, California, hưởng thọ 64 tuổi. (2) Trại Mỹ Phước Tây (thuộc Cai Lậy, tỉnh Định Tường xưa) |
| 2.Bài thơ thứ II viết nhân 100 ngày giỗ mẹ ( nằm ngủ mơ thấy được gặp mẹ ) Mẹ Đến Với Con Đêm qua mẹ đến với con, Con ôm lấy mẹ cho tròn giấc mơ. Đường làng, cát trắng như xưa, Gót hài nhỏ bé, con vừa đi qua. Dòng sông, cồn cát xa xa, Thánh đường vang vọng lời ca nguyện cầu. Tiếng chim cà cưỡng trên cao, Tổ chim xưa đó, cây cau trước nhà. Mẫu đơn rày vẫn ra hoa, Tường vi mấy đóa, mặn mà tình thương. Trước mặt là dãy Trường Sơn, Sau lưng Đông Hải, sóng dồn ra xa. Mẹ sinh con vốn mộng mơ, Con tim rung động, câu thơ gieo vần. Bài thơ dâng mẹ ân cần, Công ơn trời biển, muôn phần khắc ghi. Mẹ ơi ! Con biết nói gì ? Giờ dây mẹ đã ra đi cuối trời. Con giờ trọn kiếp mồ côi, Con giờ vẫn kiếp nổi trôi quê người. Mẹ cha rày ở trên trời, Thân con vẫn sống những nơi đọa đày. Tay dài, con nắm lấy tay, Bàn tay của mẹ, bàn tay mong chờ. Đến với con trong giấc mơ, Mẹ ơi ! Hãy đến, đừng chờ đợi chi. Triêu Dương Nguyễn Lý-Tưởng (trại tù Nam Hà 07 tháng 2/1986) |
| Nhớ Ngô Văn Thọ (1) Tôi kêu lên “Chú Mười” khi được tin anh mất! Trại Hà Tây: vùng đất ngục tù! Mấy năm trời: đói rách, xác xơ Cùng bè bạn Mỹ Phước Tây, Nam Bộ.(2) Mùa Xuân Bảy Tám (1978): Năm Mậu Ngọ, Hai trăm người: cán bộ, sĩ quan, Từ Mỹ Tho, Gò Công…đã đầu hàng Sau ngày Miền Nam sụp đổ! Bao nhiêu người đã chết vì đói khổ, Vì gông cùm, đày ải, xa quê hương… Là võ sư điều khiển một võ đường, Nay lại bị còng tay, tra tấn… Đấng anh hùng mang bao nhiêu uất hận! Ôi ! ngày xưa anh ngang dọc trên võ đài, Nay thất thế trong cô đơn, buồn tủi! Bị biệt giam một mình trong phòng tối! Nghe tứ chi xương cốt rã rời! Trên da thịt những vết bầm dính máu. Đau đớn lắm: toàn thân anh rúng động! Trời miền Bắc lạnh như dao cắt thịt, Những đêm Đông da diết tình người! Kết nghĩa anh em, chia sẻ ngọt bùi, Cùng tâm sự cuộc đời tuổi trẻ. Anh còn vợ, còn con, còn em, còn mẹ, Mười mẫu vườn hoa trái ở miền quê. Bị cướp đoạt đem chia cho lũ giặc! Chuyện tương lai! Anh cho là huyền hoặc! Nói đến ngày về: anh chỉ lắc đầu! Bên kia núi: mặt trời xuống mau, Bao làng xóm chìm sâu trong bóng tối! Khuyến khích anh, tôi tìm lời an ủi: Hãy tin vào vận hội ngày mai! Cuộc đời: bỉ cực thới lai! Hết Đông qua, rồi Xuân lại đến! Một hôm, tôi rời Hà Tây đi Hà Nội, Nơi kiên giam: buống tối Hỏa Lò! Nửa năm trời khai báo chuyện xưa… Nhưng quả đất tròn, Mình lại gặp nhau mà không hẹn! Tôi trở về Hà Tây khi Tết đến! Anh bây giờ đã khác hơn xưa… Tiếp tế, thăm nuôi, dồn dập đến Tin tức gia đình: chờ đợi bao năm… Năm Nhâm Tuất (1982),anh ra khỏi trại, Về Saigon, anh lại vượt biên… Hai mươi năm vất vả kiếm tiền, Quyết xây lại tình duyên dang dở… Chuyến về quê, tấm lòng rộng mở… Gặp lại người xưa, con cháu sum vầy! Ai ngờ một cuộc chia tay, Anh mang trọng bệnh đêm ngày thuốc thang! Nghe tin anh mất: bàng hoàng trong dạ, Bạn bè anh: mỗi người một ngã Chẳng có ai để tiễn đưa anh! Mấy bài thơ, vài tập truyện, bức tranh… Anh để lại cho đời sau thưởng lãm… Ôi! Hồi kết cuộc sao mà bi thảm!? Sống cô đơn và chết cũng cô đơn! Tôi xin đốt lên một nén hương Để tưởng nhớ người anh em kết nghĩa! Westminster, 22/11/2010 Triệu Dương NLT (1) Ngô Văn Thọ: cựu tù nhân chính trị trại Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình (Bắc VN) sinh năm 1944, mất ngày 2/10/2008, tại TP Garden Grove, California, hưởng thọ 64 tuổi. (2) Trại Mỹ Phước Tây (thuộc Cai Lậy, tỉnh Định Tường xưa) |

| Chim Xa Rừng Triệu Dương NLT (nhân ngày Hiền Mẫu) Mẹ ngồi tựa cửa lắng nghe, Tiếng chim cu gáy, trưa Hè thiết tha. Nhờ con, mắt thấm lệ nhòa, Hàng cây im bong, sân nhà chiều lên. Bên song, dáng mẹ dịu hiền, Một vừng trán rộng, tóc huyền búi cao. Vườn hoa trổ lộc cành đào, Đất lành chim đậu, cất cao giọng buồn. Chim cu gáy, loài chim khôn, Thấy người vác ná, giương cung…bỏ vườn. Trách người sao chẳng biết thương, Diệt loài chim quý, dứt đường tới lui. Chim kia đã bỏ đi rồi, Mẹ còn đứng đó, bồi hồi tâm tư. Mẹ ơi! Biết nói răng chừ, Người ta độc ác chẳng vừa khuyển ưng. Để chim xa tổ, xa rừng, Để con xa mẹ, mịt mùng biển khơi. Đã qua mấy chục năm rồi, Tiếng chim lại gáy ở ngoài vườn kia! Nơi đây con vẫn nhớ về, Vườn xưa, nhà cũ, trưa Hè mẹ mong. Vẫn nghe rạo rực trong lòng, Mỗi khi nắng ấm, nụ hồng nở hoa. Bỗng nghe tiếng gọi từ xa, Tiếng quen như tiếng mẹ cha thuở nào. Triệu Dương NLT (Trích “Thơ Toàn Tập” Thương Về Quảng Trị, trang 229…) |

| Xương Rồng Sa Mạc Chiều nay em đợi, Sao anh chẳng tới? Anh đi xa rồi, Còn lời chưa nói! Trên quãng đường dài, Ngồi nhìn mây bay. Hàng cây hun hút, Cánh diều gió lay. Mênh mông sa mạc, Những nhánh khô gầy. Xương rồng xơ xác, Trải qua tháng ngày. Mới hôm qua đó, Mà nay chia tay. Rượu nồng chưa cạn, Lòng còn ngất ngây. Tóc huyền lớp lớp, Má đỏ hây hây… Xin đừng chất chứa, Những điều chua cay. Hãy tìm hơi ấm, Nơi đôi bàn tay… Bàn tay ngón ngắn, ngón dài, Nâng niu kỷ niệm một đời dở dang. Triệu Dương NLT (17/9/2001) Bài này đã được Nguyễn Tất Vịnh phổ nhạc, thu vào CD… |
| Ai là người công chính? Cửa công chính là gì? Bài hát trong các nhà thờ “Cửa công chính hãy mở cho tôi vào?” Thánh vịnh nói “Thiên Chúa mở cửa (Thiên đàng) cho những người công chính được vào” Bài hát nói “Cửa Công Chính” tức là “Cửa Thiên Đàng” nơi có Tòa Thiên Chúa – Nơi Thiên Chúa ngự… Thiên đàng là nơi để thưởng công cho người lành – tức là người công chính Y và Hỏa ngục là nơi phạt kẻ dữ – người ác – người có tôi – là nơi giam cầm satan hay còn gọi mà ma quỷ. Vậy ai là người công chính? Các tôn giáo gọi là người chính là người ăn ở ngay lành, bác ái, công bằng không đối xứ bất công với kẻ khác, không làm hại đến quyền lợi kẻ khác nói tóm lại là không vi phạm đếnĐức công bằng và đức bái ái của Chúa. Salomon được Thiên Chúa ban cho Sự Khôn Ngoan nghĩa là ăn ở, cư xử thế nào mà không phạm đến Đức Công Bằng và Bác Ái đối với kẻ khác. Salomon cai trị một đế quốc rộng lớn do vua cha là David để lại mà không dùng đén chiến tranh để mở rộng đế quốc như cha của mình. Ông chỉ dùng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa ban cho để cai trị dân. Trong bốn năm lãnh đạo Hoa Kỳ, TT Donald Trump không hề gây chiến tranh với các quốc gia khác hay các thế lực thù địch khác. Ông luôn dùng sự khôn ngoan chính trị, ngoại giao mưu tìm hòa bình. Nhìn lại, trong Quốc Hội Hoa Kỳ có ai được gọi là người Công Chính hay không? Trong Tòa Án Hoa Kỳ (từ tiểu bang đến liên bang và Tối Cao Pháp Viện) có ai được gọi là Người Công Chính” hay không? Người Christian (Ki-tô hữu) như Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống Giáo,v.v. trong đảng Dân Chủ…có đến hàng chục triệu người…có ai được gọi là “Người Công Chính” như đã được viết trong Kinh Thánh hay không? Họ là những người tin vào sách Kinh Thánh Tân Ước – cũng gọi là Tin Mừng – là Phúc Âm – là Lời của Chúa Giê Su…Vậy trong số họ có aiđược gọi là “Người Công Chính ” hay không? -Ông Donald Trump là một Tổng Thống do dân bầu lên – Một Tổng Thống Hợp Pháp, Hợp Hiến mà không được Hiến Pháp và Luật Pháp bảo vệ – Ông lên tiếng trước bất công – ông đòi hỏi Hiến Pháp và Luật Pháp bào vệ vì ông bị “Đối Xử bất Công” Ông bị phe ủng hộ Joe Biden “ăn cắp phiếu cử tri bầu cho ông”…Ông không được xét xử công bằng! Một Tổng Thống mà không được Hiến Pháp và Luật Pháp bảo vệ – không được xét xử công bằng? Thử hỏi người dân như chúng ta làm sao được hương các quyền tự do dân chủ và được Hiến Pháp và Luật Pháp của Hoa Kỳ bảo vệ? Thử hỏi những người trong Quốc Hội Lưỡng Viện vào đêm 6 Jan 2021, với đa số tuyệt đối đưa ông Joe Biden (một tên ăn cắp phiếu của Donald Trump) lên làm Tổng Thống…Những Dân Biểu, Nghị Sĩ đó có ai được gọi là “Người Công Chính” để được bước vào “Cửa Công Chính ” tức là ” Cửa Thiên Đàng” hay không? Thử hoỉ những người trong các Tòa án từ địa phương đến Liên bang – kể cả Tối Cao Pháp Viện – đã không thèm nhìn đến hồ sơ gian lận bầu cử – làm ngơ trước những bằng chứng gian lận – làm ngơ trước những khiếu nại của phe Cộng Hòa – làm ngơ trước những nhân chứng hữu thệ xin ra trước tòa án để làm chứng về cuộc bầu cử gian lận – viện cớ này hay cớ khác để trốn tránh trách nhiệm…Ăn lương của dân mà không chịu làm việc cho dân – mặc nhiên chấp nhận kết quả bầu cử gian lận…Trong số những người ấy có ai xứng đáng được gọi là người Công Chính để được bước vào “Cửa Công Chính” tức là “CửaThiên Đàng ” hay không? Mới đây là chuyện FBI ập vào xét nhà cựu TT Donald Trump tại Florida mà đuổi hết người trong nhà không cho chứng kiến? Còn nữa, Tòa Án Quận Manhattan , Ông Chánh án người Da Đen cương quyết truy tố một cựu Tổng Thống người Da Trắng (Ông Donald Trump) có phải là “kỳ thị hay không?” Lại còn chuyện thju giấu 600 tài liệu chứng minh Ông Donald Trump vô tội…Thử hỏi công lý ở đâu? Ngày 23/3/2023 Nguyễn Lý-Tưởng (một người đang khát khao sự Công Chính” |
3. Bài thơ Thứ III viết về Mẹ, nhân Ngày Hiền Mẫu Mother’s Day 8 tháng 5/2016 tại Hoa Kỳ Mẹ Ở Rất Xa Mẹ tôi rày ở rất xa, Mịt mù mây phủ, trải qua chín tầng. Đêm đêm ra ngắm vừng trăng, Trời cao gió lộng, mẹ hằng trông con. Mẹ tôi còn đứng đầu non, Phất phơ tà áo, nét buồn như xưa. Bao năm con vẫn mong chờ, Có ngày gặp mẹ, ước mơ chưa thành. Tiếng chim ríu rít trên cành, Tháng ba là tiết Thanh Minh, con về… Ngôi nhà tổ phụ hoa khoe, Vườn rau xanh ngát, tràn trề nắng Xuân. Con đi từng bước ngại ngần, Hương bay trong gió, mộ phần mẹ đâu ? Soi gương, tóc đã bạc màu, Tuổi thơ nay đã bắt đầu lão niên… Bao năm cuộc sống ưu phiền, Đức con của mẹ trọn niềm lãng du. Xe mây, mẹ đến trong mơ, Cốt tro còn để bàn tờ nhà con. Được gần bên mẹ sớm hôm, Bao nhiêu tâm sự vui buồn có nhau. Triệu Dương Nguyễn Lý-Tưởng (Hoa Kỳ, Ngày Hiền Mẫu 8 tháng 5/2016: trước bàn thờ có để tro cốt của mẹ) |
| (Lời giới thiệu về GS Nguyễn Lý-Tưởng của Đài Saigon-Dallas 1600 AM…phần audio lúc 2:30 Pm giờ Texas ngày 29/4/2023…) Sau đây là phần Text ghi lại lời của GS Nguyễn Lý-Tưởng, Dân Biểu VNCH, 02 lần tù dưới chế độ CSVN sau ngày 30/4/1975 tổng cộng 14 năm… Kính thưa Quý vị thính giả của Đài Saigon-Dallas 1600 AM Trước hết, tôi xin cảm ơn Bà Thu Nga , Tổng Giám Đốc Đài Saigon-Dallas 1600 AM đã dành cho tôi 30 phút phát biểu về ngày Quốc Hận 30/4/1975 cám ơn các nhân viên phụ trách kỹ thuật, cám ơn người hướng dẫn chương trình đã giới thiệu tôi với thính giả, cám ơn quý vị đặc biệt các bạn trẻ đã theo dõi chương trình nầy… Hôm nay là Thứ Bảy, 29/4/2023, ngày mai là 30/4/2023, cách nay 48 năm là ngày Quân Cộng Sản Hà Nội xóa bỏ những cam kết của họ trong Hiệp định ký kết giữa 04 bên tại Paris ngày 27/1/1973…xua quân cưỡng chiếm Saigon và Miền Nam Việt Nam tức VNCH… Kính thưa quý vị, Ngày 30/4/1975 là một biến cố lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam chúng ta. Có hàng triệu người bỏ nước ra đi, hàng triệu người chết trên biển,trên sông, trong rừng hay trong các nhà tù Cộng Sản. Chúng ta thua trận, nhưng cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền vẫn còn tiếp tục từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, ở trong nước, ở ngoại quốc, v.v…Cho đến khi nào dân tộc chúng ta thoát khỏi chế độ Cộng Sản độc tài, nhân dân Việt Nam được hưởng các quyền tư do dân chủ thực sự, được hưởng một cuộc sống thanh bình hạnh phúc thực sự, chúng ta mới có quyền nghỉ ngơi. Đã có biết bao sách vở, báo chí nói về biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng mỗi tác giả có một cách nhìn khác nhau; mỗi nhà phân tích, bình luận có một nhận định khác nhau. Do đó, mỗi năm đến dịp kỷ niệm 30/4 vẫn còn nhiều vấn đề bí ẩn, mới mẻ được đưa ra giới thiệu với mọi người. Hôm nay, tôi không có tham vọng trình bày lại một cách đầy đủ các biến cố xảy ra trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mục đích của chúng tôi là giúp các bạn trẻ hiểu được một số vấn đề: -Tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975? -Tại sao chúng ta phải tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền và tự do dân chủ tại Việt Nam ? -Chiến tranh Việt Nam có phải là chiến tranh chống ngoại xâm hay không? -Những người chống lại Cộng Sản bị buộc tội theo Pháp, theo Mỹ chống lại dân tộc của mình. Điều đó dúng hay sai? -Chúng ta thua trận vì bị lừa dối hay vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa không có tinh thần chiến đấu? Trên đây là những vấn đề được dặt ra cho chúng ta, những thế hệ trẻ Việt Nam chưa hề tham gia vào cuộc chiến trước 1975 hoặc đã sinh ra và lớn lên ở ngoại quốc. Vì vấn đề đặt ra quá rộng lớn nên chúng tôi phải chia ra thành nhiều đề mục và sẽ lần lượt trình bày từng vấn đề. Nhưng hôm nay chúng ta chỉ có 30 phút nên tôi xin chọn một vài câu chuyện đặc biệt để trình bày với quý vị và các bạn mà thôi. Minh dọn ra ở ngoài garage, cam chịu nhục nhã. Tất cả áo quần, đồ đạc của Nguyễn Lễ Trí con lại trong nhà, hắn xem như của riêng của mình, tự động lấy ra xài. Sau ngày 30/4/1975, Cộng Sản vẫn để cho Dương Văn Minh ở trong Dinh Hoa Lan là nhà riêng của ông ta trước đây, hoàn toàn tư do ở trong đó, muốn làm gì thì làmPhát biểu của GS Nguyễn Lý-Tưởng về “Ngày Quốc Hận 30/4/1975” đài Saigon-Dallas 1600 AM lúc 2:30 Pm giờ Texas ngày 29/4/2023 (Text) (1) Chuyện liên quan đến Ông Dương Văn Minh: Thư phân trần của Đại Tướng Dương Văn Minh từ Pháp gởi cho Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi tại Hoa Kỳ -Trước hết, tôi xin kể câu chuyện liên quan đến Đại Tướng Dương Văn Minh và người em trai là Dương Văn Nhật (Đại Tá trong quân đội Bắc Việt) Thời gian từ 1975 đến 1988 (13 năm) tôi bị tù lần thứ I dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam gọi là “học tập cải tạo”, tôi có gặp Đại Tá Nguyễn Lễ Tri là người đã hai lần giữ chức vụ Chánh văn phòng của Dương Văn Minh. Lần thứ I vào năm 1963 và lần thứ II vào năm 1975 vì ông là người trongtrong gia đình , người được Đại Tướng Dương Văn Minh tin cậy. Vợ của Nguyễn Lễ Trí là em ruột vợ Dương Văn Minh. Bà mẹ vợ ở với vợ chồng Nguyễn Lễ Trí. Ngày 30/4/1975, tất cả những người cùng Dương Văn Minh đón tiếp Đại diện quân đội Cộng Sản vào Dinh Độc Lập sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, đều được miễn học tập cải tạo…chỉ có một số người bị đi “học tập cải tạo” (bị tù) trong đó có Đại Tá Nguyễn Lễ Trí và những nhân viên trong Phủ Tổng Thống làm việc thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được tạm thời giữ lại làm việc vi chưa có người thay thế. Tại sao Đại Tá Nguyễn Lễ Trí là người mới, người tin cậy của Dương Văn Minh mà vẫn bị “tù cải tạo” sau 30/4/1975? Tôi gặp Đại Tá Nguyễn Lễ Trí vào khoảng 1980 tại trại tù “cải tạo” Hà Tây (Tỉnh Hà Sơn Bình, Bắc Việt) lúc đó, ông đã ở trong tù hơn 05 năm rồi :sức khỏe suy sụp, tinh thần bạc nhược và bất mãn tột cùng. Dịp cuối tuần, tù được ở nhà, không đi lao động, tôi thường đến thăm ông…Ông cho tôi biết…Vào tháng 11/1963, sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và Dương Văn Minh lên làm Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng (Quốc Trưởng)và mời ông Nguyễn Ngọc Thơ (nguyên là Phó Tổng Thống của Ông Diệm) làm Thủ Tướng, đứng ra thành lập Chính Phủ mới. Một hôm, DươngVăn Minh ra lệnh cho Nguyễn Lễ Trí (lúc đó là Thiếu Tá Chánh Văn Phòng) một mình lái xe đến nhà Dương Thanh Sơn (Thiếu Tá Quân Cụ, em ruột Dương Văn Minh) để đón một người…sau nầy mới biết người đó là Dương Văn Nhật, em ruột Dương Văn Minh, sĩ quan của Cộng Sản Bắc Việtđược đưa vào Saigon để liên lạc với Dương Văn Minh. Nguyễn Lễ Trí đã đưa Dương Văn Nhật từ Saigon đi về phía Tây Ninh. Khi đến một nơi bên cạnh khu ruộng lúa thuộc tỉnh Hậu Nghĩa (tức vùng Củ Chi) thì Dương Văn Nhật ra lệnh cho Nguyễn Lễ Trí ngừng xe và Nhật xuống xe đi qua cánh đồng đến một xóm nhà xa xa. Khi không còn thấy bóng Dương Văn Nhật nữa, Nguyễn Lễ Trí mới lái xe trở về báo cáo cho Dương VănMinh biết “đã hoàn thành công tác”….Thời gian lưu vong bên Thái Lan, Hà Nội cho Dương Văn Nhật qua Pháp chữa bệnh và con trai của Dương Văn Minh du học tại Pháp đã liên lạc với Dương Văn Nhật và chuyển tin tức từ Dương Văn Nhật cho Dương Văn Minh ở Thái Lan. Như vậy là đả có sự hợp tác giữa Dương Văn Minh và Cộng Sản Hà Nội thời gian Tổng Thống Ngô Đình Diệm còn lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa! Trung Ương TìnhBáo VNCH và CIA Mỹ cũng biết tin nầy, nhưng vừa có lệnh theo dõi thì Dương Văn Nhật đã ra khỏi Saigon rồi. Sau ngày 30/4/1975, Dương Văn Nhật ở tại nhà Nguyễn Lễ Trí, lúc đó trong nhà chỉ có mẹ vợ của Nguyễn Lễ Trí và mấy người giúp việc, vì Nguyễn Lễ Trí đã cho vợ con qua Pháp trước ngày 30/4/1975 rồi. Nguyễn Lễ Trí có quốc tịch Pháp trước 1954, nên gia đình nầy được qua Pháp vào giờ chót. Đó cũng là lý do Nguyễn Lễ Trí không được miễn học tập cải tạo. Theo Nguyễn Lễ Trí, Dương Văn Nhật chỉ là Đại Tá của Việt Cộng,nhưng báo chí Saigon viết “Thiếu Tướng Dương Văn Nhật”, đa số không biết nên cứ gọi Nhật là “Thiếu Tướng”…Dương Văn Nhật có dụng ý chiếm nhà Nguyễn Lễ Trí để ở nên “đẩy” Nguyễn Lễ Trí vào “tù cải tạo”. Tư cách của Dương Văn Nhật vốn “không tốt”, hắn đuổi mẹ vợ của Dương Văn Minh dọn ra ở ngoài garage, cam chịu nhục nhã. Tất cả áo quần, đồ đạc của Nguyễn Lễ Trí còn lại trong nhà, hắn xem như của riêng của mình, tự động lấy ra xài. Sau ngày 30/4/1975, Cộng Sản vẫn để cho Dương Văn Minh ở trong Dinh Hoa Lan là nhà riêng của ông ta trước đây, hoàn toàn tư do muốn làm gì thì làm…Một thời gian sau, ông được định cư tại Pháp theo yêu cầu, vì lý do để chữa bệnh. Từ Pháp, Dương Văn Minh đã viết một thư gởi qua Mỹ cho Nguyễn Chánh Thi (nguyên Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Đà Nẵng, mùa Hè năm 1966, bị Nguyễn Cao Kỳ với tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng) cách chức và bắt buộc phải “lưu vong” qua Mỹ…Xin trích một đoạn trong nầy: “Từ khi tôi đến nước Pháp, lật bật đã gần sáu năm rồi..(bỏ mấy chữ). Đỡ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các tiền bối cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi. Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiếnvới một số vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân. “Riêng tôi, tôi không tự tử vì thiếu can đảm, nhưng vì lý do rất đơn sơ:- Tôi không tự sát vì thân thể do Trời Đất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡngmình không có quyền hy sinh.- Mình có quyền hy sinh tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp,v.v…Tóm tắt mình có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi. Đây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác.” NLT xin góp ý thêm về đoạn văn trên đây của Dương Văn Minh…Xin lưu ý: Dương Văn Minh có nhắc đến Thầy Trí Quang và Thầy Trí Thủ… Thời gian ở trong nhà tù Cộng Sản tại miền Bắc, tôi có gặp Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, là người được Dương Văn Minh đưa lên làm Tổng Tham Mưu Trưởng sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên bỏ chạy. Tướng Có ở cạnh Dương Văn Minh cho đến giờ chót. Tướng Có kể lại: Dương Văn Minh gọitel cho Thầy Trí Quang hỏi thăm việc nhờ Thầy liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “đến đâu rồi”? Thầy Trí Quang trả lời: “Ông là Tướng, việc đó là việc của ông…Tôi làm sao giúp ông được”. Dương Văn Minh bèn la lên : Thầy giết chết tôi rồi”…Chúng tôi xin nói rõ: Sau khi lật đổ TổngThống Ngô Đình Diệm, Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn tiếp tục lãnh đạo Phật tử biểu tình chống lại chế độ miền Nam từ Nguyễn Khánh đến Nguyễn Văn Thiệu. Sau hiệp định Paris (1973), Thầy Trí Quang nhất định đòi TT Nguyễn Văn THiệu từ chức để trao quyền lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh và không chấp nhận bất cứ một ai ngoài Dương Văn Minh…Con bài chính của Thầy là Dương Văn Minh…Sau 30/4/1975, Cộng Sản Việt Nam xác định Dương Văn Minh là người thi hành các mệnh lệnh của họ từ việc lật đổ TT Ngô Đình Diệm (1963) cho đến 1975, khi CộngSản hoàn toàn chiếm được Miền Nam Việt Nam (VNCH)…và nhiệm vụ của Thầy Trí Quang cũng đã hoàn tất. Và sau 30/4/1975, Thầy Trí Quang rút vào bóng tối, không tổ chức biểu tình chống chính quyền (CS) như đã tổ chức chống chính quyền VNCH từ TT Ngô Đình Diệm cho đến TT Nguyễn Văn Thiệu. -Trước ngày 30/4/1975, Tướng Vanuxem của Pháp có đến Saigon gặp Dương Văn Minh, đề nghị kêu gọi các nước ký tên bảo đảm thi hành Hiệp định Paris, trong đó có Trung Cộng, can thiệp để giữ cho Miền Nam Việt Nam (VNCH) được hòa bình, trung lập, không bị Cộng Sản Bắc Việt xâmlăng. Nhưng Dương Văn Minh đã từ chối. Luật sư Nguyễn Văn Chức (Nghị sĩ VNCH) nhận xét: “Có đọc thư trên mới thấy Dương Văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái dũng của một người làm tướng…(bỏ mấy chữ). Trong phạm vi gia đình, sai lầm của một người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương Văn Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia tới chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương Văn Minh dành cho những người làm chính trị phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”, tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chế và bị bia miệng ngàn đời chê trách”. (2) Tuyên bố của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan (TT Hoa Kỳ từ 1980-1988) về biến cố 30/4/1975: “Chấm dứt chiến tranh không phải là việc Mỹ rút quân về là xong, mà cái giá phải trả cho loại hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinhra tại Việt Nam về sau”… Ai cũng biết, kế hoạch bắt tay với Trung Cộng, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa là do TT Richard Nixon và Henry Kissinger…Mỹ đã thành công vì liên kếtvới Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai để phá vỡ thế đoàn kết của của Cộng Sản Quốc Tế giữa Liên Sô và Trung Cộng và sau cùng là Cộng Sản Liên Sô và Đông Âu sụp đổ…Sau khi Mỹ ném bom Hà Nội (12/1972) Lê Duẩn gởi điện văn xin đầu hàng, nhưng Mỹ làm ngơ và tuyên bố nối lại hòa đàm tại Paris. Chủ trương của Mỹ là “bỏ Việt Nam Cộng Hòa”, rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam để lập thế liên minh với Trung Cộng. Nhưng dưới thờiTT Jimmy Carter (1976-1980), Mỹ đã chứng kiến địa ngục Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975 và cảnh vượt biên, chết trên biển, trong rừng, cảnh tù cải tạo mà quân, cán, chính VNCH phải chịu sau 30/4/1975…cho đến 1980, khi Ronald Reagan lên làm TT Hoa Kỳ, chị 05 năm, thờigian rất ngắn, tư tưởng chiến lược của Mỹ đã thay đổi. Suy nghĩ của các chính trị gia Mỹ từ 1965 – 1975 đã khác xa với sau 1975 và tất nhiên từ ngày ông Donald Trump lên làm Tổng Thống (2017- 2020) xem như chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã quay 180 độ. Ngày nay, chúng ta nhắc lại các biến cố lịch sử nhưng không nên suy nghĩ như đã suy nghĩ trong thời gian xảy ra các biến cố lịch sử đó…mà phải suy nghĩ theo suy nghĩ của các chính trị gia Hoa Kỳ đang suy nghĩ bây giờ. Các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ trước 1975 suy nghĩ khác với các chính trị gia bây giờ (như dướithời TT Donald Trump chẳng hạn)…Trước 1975, chính trị gia Mỹ nhìn thấy một tương lai tốt đẹp khi hợp tác với Trung Cộng…Nhưng từ khi TT Trump lên lãnh đạo Hoa Kỳ…thì ông đã nhìn thấy Trung Cộng đã trở thành mối nguy hiểm cho Hoa Kỳ như thế nào?…Chúng ta nhắc lại ngày 30/4/1975 là để xác nhận sự thật lịch sử đã xảy ra trong quá khứ chứ không phải bắt buộc chúng ta phải suy nghĩ trở lại như thời gian đó mà phảinhìn vào tình hình hiện nay. Trước 1975, các cấp lãnh đạo của VNCH không hiểu được chính trị của Mỹ, hợp tác với Mỹ, đồng minh với Mỹ mà không hiểu Mỹ muốn gì nên mới thất bại. Ngày hôm nay mà cũng hiểu như ngày xưa, cách nay 48 năm (1975 – 2023) thì cũng là đi trở lại con đường cũ. Phải thay đổi tư duy thì mới theo kịp tình hình bây giờ. (Tôi nói như vậy…tùy theo anh chị em, ai hiểu thế nào thì hiểu…)(3) Câu hỏi cuối cùng: 05 năm sau ngày 30/4/1975 (vào thời điểm 1980) khi TT Ronald Reagan lên lãnh đạo Hoa Kỳ, người Mỹ có hối hận vì đã kýHiệp định Paris ngày 27/1/1973 “Mỹ rút quân” mà không đòi hỏi quân đội Bắc Việt phải rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa? Kết quả củaHiệp định Paris 1975 là ngày 30/4/1975. Ai chịu trách nhiệm “để mất” Việt Nam Cộng Hòa ?. Xin nói thẳng điều nầy: Chuyện để mất Sài Gòn ngày 30/4/1975, rõ ràng là chủ trương của Mỹ, về mặt nổi thì Đảng Dân Chủ và phe Phản Chiến ởMỹ đã bị lên án. Nhưng thực tế là TT Richard NIxon và Bộ Trưởng Ngoại Giao Henry Kissinger lúc đó mới là tác giả. Và như tôi đã nói, chính trị củaMỹ từ 1965-1975 khác với chính trị của Mỹ dưới thời TT Donald Trump (2017-2020). Năm 1972, (TT Nixon) Mỹ chủ trương bắt tay với Trung Cộng (nhưng năm 2017 (thời TT Trump) lại chủ trương đối đầu với Trung Cộng. Trải qua các đời TT Mỹ (Bill Clinton, Bush con, Obama)… Mỹ giúp ĐặngTiểu Bình “bốn hiện đại hóa”…Sau đó, Mỹ ưu đãi Trung Cộng về thuế quan, cho TC gia nhập WTO…làm cho Mỹ thiệt thòi, cán cân thương mãichênh lệch, mỗi năm TC đem về trên 300 tỷ dollars…Mỹ tạo điều kiện thuận lợi cho TC xâm nhập tình báo vào Hoa Kỳ, ăn cắp kỹ thuật công nghệ,bí mật quốc phòng, thực hiện tham vọng làm bá chủ thế giới (tranh với địa vị của Hoa Kỳ)…Trong cuộc bầu cử TT năm 2016, dân Mỹ ủng hộ Trumpđối đầu với Trung Cộng để cứu nước Mỹ…Nhưng năm 2020, Tình báo Trung Cộng bắt tay với phe Dân Chủ, giúp Joe Biden lên làm TT Hoa Kỳ. Tỷphú Geroges Soros với chủ trương “Trật tự thế giới mới” đứng đàng sau từ con bài Barack H.Obama đến Joe Biden, quyết biến Hoa Kỳ thành mộtchế độ xã hội chủ nghĩa (trá hình)…Do đó, Donald Trump và Đảng Cộng Hòa phải cương quyết “làm cho nước Mỹ vỹ đại trở lại” (Make AmericanGreat Again)… (sinh năm 1920) |

Giáo Sư Nguyễn Lý Tưởng xuất bản hồi ký Thác Lũ Mưa Nguồn

| Hình ảnh buổi Ra mắt sách “THÁC LŨ MƯA NGUỒN” quyển I và II của Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân Biểu VNCH tại San Diego ngày Thứ Bảy 03 tháng 12/2022 |





















